Về việc nhiều địa phương đề xuất nghiên cứu bổ sung cảng hàng không, sân bay vào Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, PGS.TS. Nguyễn Duy Đông, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Công nghệ Hàng không Việt Nam cho rằng, nhu cầu này là chính đáng và cần được nghiên cứu đầy đủ, bài bản, đúng quy định để tạo điều kiện cho ngành Hàng không phát triển. Ngành hàng không Việt Nam nhưng tuyệt đối không được để thất thoát vốn đầu tư, cũng như tài sản của Nhà nước.
Theo chuyên gia này, khi địa phương muốn đầu tư cảng hàng không, sân bay cần xây dựng các tiêu chí cơ bản, hợp lý và tính đến hiệu quả kinh tế – xã hội chung.
Thưa ông, tiêu chí quy hoạch cảng hàng không, sân bay của một địa phương và tương thích với mạng lưới cảng hàng không quốc gia là gì?
Một sân bay được quy hoạch và xây dựng với 3 mục đích: chính trị, an ninh quốc phòng và phát triển kinh tế.
Đặt vấn đề quy hoạch cảng hàng không, sân bay, tiêu chí đầu tiên là có nhu cầu hàng không hay không, tức là lượng hành khách, hàng hóa tối thiểu tại thời điểm sau khi sân bay đưa vào khai thác. 10 năm có đủ để mở sân bay hay không? Đồng thời, có đủ hành khách và hàng hóa trên các chuyến bay theo lịch trình không?
Thứ hai, vị trí dự kiến xây dựng sân bay này có hợp lý, đáp ứng các yêu cầu về mặt thủy văn, địa chất, thổ nhưỡng, địa hình, thời tiết cho phép tàu bay cất, hạ cánh hay không. không. Thứ ba là vùng trời, không gian và điều kiện tĩnh của SB có cho phép máy bay cất và hạ cánh hay không. Thứ tư là các điều kiện hiện có về các loại hình giao thông khác, vấn đề dân cư, an ninh, an toàn của khu vực. Thứ năm là các yếu tố cho phép về chính trị, quân sự và an ninh quốc gia.
PGS.TS.Nguyễn Duy Đông, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Công nghệ Hàng không Việt Nam.
Trong các yếu tố trên, tùy theo từng địa phương, từng vị trí dự kiến xây dựng cảng hàng không mà vai trò của từng yếu tố có thể khác nhau nhưng luôn phải đảm bảo yêu cầu tối thiểu. Khi các yếu tố trên được thỏa mãn thì sẽ xét đến tiêu chí thứ sáu: Tiêu chí kinh tế và đầu tư được xếp cuối cùng, nhưng tiêu chí này đóng vai trò quyết định khi so sánh và lựa chọn các phương án. Trong quy hoạch mạng lưới cảng hàng không, sân bay dân dụng cũng cần nghiên cứu, xem xét vai trò hỗ trợ lẫn nhau giữa cảng hàng không, sân bay.
Tại Quyết định 911/1997 / QĐ-TTg ngày 24/10/1997 của Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra các tiêu chí chính như: nhu cầu hành khách tối thiểu để mở cảng hàng không là 25.000 hành khách / năm, dưới 25.000 hành khách. / năm chỉ là sân bay dịch vụ (có tiêu chí phân loại cảng hàng không cụ thể, SB tùy theo lưu lượng hành khách / năm); Khoảng cách tối thiểu của các đường bay đạt hiệu quả là 500 km, từ 300 – 500 km kém hiệu quả và dưới 300 km kém hiệu quả.
Như vậy, cơ quan lập quy hoạch cần cụ thể hóa các tiêu chí trên để việc xây dựng mạng lưới cảng hàng không, sân bay mới đạt hiệu quả và khả thi.
So với các nước trong khu vực như Nhật Bản, Thái Lan, Malaysia, số lượng sân bay của Việt Nam còn ít. Do đó, khả năng tiếp cận hàng không của các vùng kém phát triển, đi lại khó khăn như Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ còn hạn chế. Theo ông, việc mở rộng hệ thống cảng hàng không ở nước ta có còn nhiều không?
Từ đầu những năm 1990, khi nghiên cứu Quy hoạch quốc gia cảng hàng không, các chuyên gia thực hiện đã tham khảo ý kiến của Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Triều Tiên trên quan điểm: “Quy hoạch nhìn ra các nước xung quanh”.
Để phù hợp với tình hình phát triển của thế giới, trong khoảng 8 đến 10 năm có thể nghiên cứu điều chỉnh, sau 25 đến 30 năm có thể quy hoạch lại, điều chỉnh, bổ sung mạng lưới cảng hàng không. , sân bay dân dụng theo thực tế phát triển của đất nước và cũng như sự phát triển kinh tế của từng địa phương.
Có 38 sân bay ở Thái Lan. Indonesia là quốc gia có nhiều sân bay nhất, tại quốc đảo rộng lớn này có “ít nhất 683 sân bay” (cập nhật đến tháng 9 năm 2021), tuy nhiên, chỉ 34 trong số đó là sân bay thương mại. Tại Malaysia, hiện có 66 sân bay nhưng chỉ 38 trong số này phục vụ mục đích thương mại.
Theo tôi, mọi sự so sánh chỉ là tương đối, nhiều khi nói đến số lượng sân bay của các nước mà chúng ta chưa chú ý phân biệt đâu là cảng hàng không, sân bay chung chung. huấn luyện bay, thử nghiệm, sân bay các hạng … Vì vậy, khi quy hoạch xây dựng cảng hàng không, sân bay ở Việt Nam cần tham khảo kinh nghiệm quốc tế nhưng đồng thời cũng phải dựa vào đó. điều kiện cụ thể của từng địa phương, trên cơ sở các tiêu chí cơ bản như tôi đã nêu ở câu hỏi trước, khi tiến hành xây dựng dự án phải nghiên cứu dự án một cách bài bản, đúng quy định. quy trình quốc gia và sau đó quyết định.
Có ý kiến cho rằng cần nghiên cứu bổ sung quy hoạch sân bay ở những địa phương có tiềm năng phát triển kinh tế, du lịch nhưng đang gặp rào cản về hạ tầng giao thông. Cần có tầm nhìn dài hạn vì quy hoạch đầu tư sân bay là đầu tư lâu dài, tạo động lực phát triển kinh tế – xã hội cho toàn vùng. Bạn nghĩ gì về điều này?
Theo tôi, nhu cầu đầu tư cảng hàng không của các địa phương là điều dễ hiểu vì đây là nguyện vọng phát triển kinh tế của các địa phương. Tuy nhiên, như những câu hỏi trên tôi đã trình bày, nếu các địa phương muốn đề xuất xây dựng cảng hàng không, sân bay và tìm được nhà đầu tư đồng hành thì cần phải có kế hoạch, mục tiêu rõ ràng. , phân tích hiệu quả kinh tế – xã hội, luận chứng sự cần thiết phải xây dựng sân bay.
Tiếp theo, hồ sơ phải được các Bộ liên quan như Bộ Giao thông vận tải, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Xây dựng thẩm định, sau đó được Nhà nước thẩm định và Thủ tướng Chính phủ ký ban hành. Trình duyệt.
Cảng hàng không, sân bay là những công trình lớn, việc xây dựng cần thực hiện đúng quy trình, thủ tục, đúng quy định. Trong quá trình thực hiện phải sử dụng có hiệu quả đất đai và các nguồn lực khác của Nhà nước, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn xã hội hóa, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Hầu hết các tỉnh, thành phố xin đầu tư xây dựng cảng hàng không theo hình thức PPP. Nhưng có ý kiến cho rằng việc đầu tư sẽ khó thu hồi vốn. Theo ông, đây có phải là rào cản trong việc thu hút các nguồn lực xã hội để xây dựng sân bay?
Địa phương nào có nhu cầu xây dựng cảng hàng không, sân bay và đang tìm nhà đầu tư chiến lược, sẵn sàng đầu tư hạ tầng tại đó thì cứ góp ý, kiến nghị. Bởi theo quy luật, ai là chủ đầu tư sẽ phải chịu trách nhiệm về số vốn mình bỏ ra và sau đó mọi việc sẽ diễn ra theo quy luật.
Các nhà đầu tư có thể nghiên cứu và đưa ra các đề xuất đầu tư, miễn là họ phải chịu trách nhiệm cho đến cùng. Nếu là vốn nhà nước thì phải có chế tài theo quy định của pháp luật. Nếu là vốn tư nhân, chủ đầu tư cũng cần nghiên cứu kỹ về hiệu quả đầu tư, chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật, nộp thuế thường xuyên, đầy đủ cho ngân sách quốc gia. Nhiều địa phương như tỉnh Quảng Ninh đã thành công trong việc sử dụng nguồn vốn xã hội hóa để xây dựng Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn, tạo hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại.
Để tối ưu hóa hiệu quả kinh tế, theo tôi, chúng ta cần đặt ra câu hỏi khi đầu tư vào cảng hàng không, sân bay thì nhà đầu tư, địa phương và Nhà nước được lợi gì? Ngân sách quốc gia hàng năm là bao nhiêu? Tôi hy vọng với sự tham gia của vốn tư nhân, ngành hàng không nước ta sẽ ngày càng khởi sắc và cạnh tranh lành mạnh với các ngành vận tải còn lại như đường bộ, đường sắt, hàng hải, đường thủy nội địa. địa lý.