Áp lực của phương Tây đối với Nga đang bước vào một mặt trận mới. Nếu như trước đây, trong trường hợp của Iran hay Venezuela, các biện pháp trừng phạt trong lĩnh vực năng lượng nhằm vào lượng dầu xuất khẩu thì lần này, phương Tây nhắm vào giá dầu của Nga. Mục tiêu được nêu ra là nhằm ngăn chặn dòng tiền mà Nga có thể sử dụng trong cuộc xung đột ở Ukraine, một thế trận hiện được coi là kéo dài và lợi thế sẽ thuộc về bên nào cầm cự được lâu hơn. .
Việc quốc gia xuất khẩu dầu thô lớn thứ hai thế giới phải chịu giá trần rõ ràng là một yếu tố mà các bên sẽ phải tính đến khi hoạch định chính sách năng lượng của mình. Mỗi ngày, nếu thế giới tiêu thụ khoảng 100 triệu thùng dầu thì 1/10 số đó là dầu của Nga.
Với mức giá trần 60 USD/thùng do nhóm G7 và Liên minh châu Âu áp đặt, dầu mỏ của Nga không thể bán được giá cao hơn khi vận chuyển sang các nước thứ ba qua đường biển.
Theo giới phân tích, mức giá trần này không có tác động lớn ngay lập tức tới Nga bởi thực tế nó gần bằng với giá dầu Urals được bán trên thị trường trong thời gian gần đây. Giá trần chỉ có thể ngăn Moscow kiếm lời khi giá dầu cao và giá trần được thực thi nghiêm ngặt.
Thời điểm sau ngày 5/12, giá dầu mỏ Nga trên thị trường đang giảm. Một chuyên gia của Quỹ An ninh Năng lượng Nga từng cảnh báo, sự sụt giảm nguồn thu từ dầu mỏ sẽ đánh vào điểm dễ bị tổn thương nhất của nền kinh tế Nga – ngân sách nước này.
Theo Bộ Tài chính Nga, thâm hụt ngân sách liên bang năm 2022 đã tăng hơn gấp đôi, lên 2% thay vì 0,9% GDP như dự báo ban đầu.
Không phải đến bây giờ mà trước đó, Nga cũng đã tính toán cắt giảm sản lượng khai thác dầu để bù đắp những tác động tiêu cực từ việc phương Tây áp giá trần. Tháng 10 năm nay, Phó Thủ tướng Nga Alexander Novak tuyên bố sản lượng dầu mỏ của Nga năm nay ước đạt 530 triệu tấn và có thể sẽ giảm xuống 490 triệu tấn vào năm 2023.
Hiện tại, Nga đang cân nhắc các phương án đáp trả phương Tây. Theo đó, phương án thứ nhất là cấm hoàn toàn việc xuất khẩu dầu thô của Nga sang các nước liên quan đến việc ủng hộ trần giá dầu. Thứ hai là cấm xuất khẩu dầu theo các hợp đồng bao gồm giá dầu trần. Thứ ba là thiết lập “giá chỉ định”, xác định mức giảm tối đa của dầu Urals dựa trên dầu thô Brent và sẽ không thông qua bất kỳ thỏa thuận bán dầu nào nếu mức giảm này tăng lên.
Nga nhiều lần khẳng định sẽ không cung cấp dầu mỏ cho những quốc gia áp đặt giá trần “phản thị trường” ngay cả khi phải cắt giảm sản lượng. Và theo ước tính của Cơ quan Năng lượng Quốc tế, Nga có thể giảm sản lượng khoảng 1,4 triệu thùng mỗi ngày vào đầu năm 2023.
Tổng thống Nga Vladimir Putin (Ảnh: AP)
Trong một thế giới mà dầu vẫn là huyết mạch của các nền kinh tế ngày nay, tiếng nói của người bán – những nhà sản xuất dầu lớn – được thị trường theo dõi chặt chẽ. Theo tuyên bố của Tổng thống Nga Putin, giá cả sẽ không do người mua quyết định vì đây là cách phi thị trường.
Nga cũng nhiều lần cảnh báo trước về sự trả đũa cũng như hậu quả đối với các nước phương Tây nếu áp trần giá dầu.
Phía Mỹ và châu Âu cho rằng trần giá dầu là biện pháp hữu hiệu để gây khó dễ cho Nga. Một trong những lập luận được Thủ tướng Estonia Kaja Kallas đưa ra là cứ giảm 1 USD giá trần, Nga sẽ thiệt hại 2 tỷ USD. Viện Tài chính Quốc tế có trụ sở tại Hoa Kỳ ước tính rằng mức trần giá có thể đẩy thâm hụt ngân sách của Nga lên 3% GDP vào năm 2023, tương đương hơn 50 tỷ USD.
Tàu chở dầu ở East Chicago, Indiana, Mỹ (Ảnh: AP)
Có thể thấy, việc áp trần giá dầu không đơn thuần là một quyết định kinh tế, mà nó nằm trong tổng thể cuộc đối đầu giữa Nga và phương Tây trong bối cảnh cuộc xung đột ở Ukraine. Và dầu được chọn vì đây là mặt hàng chiến lược, sống còn đối với nền kinh tế Nga.
Theo số liệu của Cơ quan Năng lượng Quốc tế, sản lượng dầu thô của Nga ước đạt 10 triệu thùng/ngày. Doanh thu từ dầu mỏ đóng góp hơn 30% cho ngân sách của Nga. Ngay cả với mức trần giá hiện tại, Nga dự kiến vẫn kiếm được 10-15 tỷ USD mỗi tháng từ xuất khẩu dầu mỏ, tương đương với mức của năm 2021, tức là trước khi xảy ra xung đột Ukraine.
Trong số các điểm đến của dầu mỏ Nga theo số liệu năm 2021, có thể thấy chỉ riêng EU và Mỹ đã chiếm hơn một nửa, lên tới 55%. Khách hàng lớn tiếp theo là Trung Quốc chiếm khoảng 1/5. Còn lại là các nước khác. Vậy sau khi đối mặt với các lệnh trừng phạt, dầu mỏ của Nga sẽ đi về đâu?
Các cảng biển của Nga, nơi các tàu chở dầu cập bến để nhận hàng và sau đó lên đường đi vòng quanh thế giới, luôn bận rộn. Trong tháng 11, lượng dầu xuất khẩu bằng đường biển của Nga đạt hơn 3 triệu thùng/ngày. Khoảng 67% dầu thô từ các cảng của Nga đi đến châu Á, tăng mạnh so với mức 40% trước khi Moscow tiến hành chiến dịch quân sự ở Ukraine vào tháng Hai.
Ashok Sajjanhar – Chủ tịch Viện Nghiên cứu Toàn cầu Ấn Độ – cho biết: “Các quốc gia tiếp tục nhập khẩu dầu của Nga, chẳng hạn như Ấn Độ, Trung Quốc và một số nền kinh tế mới nổi khác”.
Nhập khẩu dầu của Trung Quốc từ Nga tăng lên 1,9 triệu thùng mỗi ngày trong tháng 11 từ 1,82 triệu thùng trong tháng 10. Trong số này, 1,05 triệu thùng được vận chuyển bằng đường biển, 850 nghìn thùng được vận chuyển qua đường ống.
Trong cùng thời gian, Ấn Độ đã nhập khẩu một lượng dầu thô cao kỷ lục từ Nga với 1 triệu thùng/ngày, cao hơn gần 100.000 thùng/ngày so với tháng 10 và cao gấp 10 lần so với trước khi dịch bệnh bùng phát. xung đột ở Ukraine.
Ngoại trưởng Ấn Độ Subrahmanyam Jaishankar (Ảnh: AP)
Ông Subrahmanyam Jaishankar – Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ – cho biết: “Nghĩa vụ cơ bản của chúng tôi là đảm bảo rằng người tiêu dùng Ấn Độ có quyền tiếp cận tốt nhất có thể, theo các điều khoản có lợi nhất cho thị trường dầu khí quốc tế. Về mặt đó, chúng tôi có. Tôi thấy rằng mối quan hệ Ấn Độ-Nga đã có tác động tích cực cho chúng tôi. Vì vậy, nếu nó mang lại lợi ích cho Ấn Độ, chúng tôi muốn tiếp tục nó.”.
Xuất khẩu dầu của Nga sang Thổ Nhĩ Kỳ cũng tăng đáng kể, từ 320.000 thùng/ngày lên 540.000 thùng/ngày trong tháng 11. Theo công ty phân tích Refinitiv Eikon, Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng gấp đôi lượng dầu nhập khẩu. Nga năm nay.
Simone Tagliapietra tại Viện nghiên cứu Bruegel, Bỉ cho biết: “Thổ Nhĩ Kỳ sẽ cố gắng hưởng lợi nhiều nhất có thể để có được năng lượng giá rẻ của Nga nhưng đồng thời không làm sứt mẻ liên minh NATO.”.
Dầu giàu có của Nga cũng đang đổ vào Sri Lanka, với 60% lượng dầu thô nhập khẩu kể từ tháng 5 đến từ Nga.
Tại khu vực Trung Đông – châu Phi, các nước khu vực này đã nhập khẩu khoảng 268 nghìn tấn dầu tinh luyện từ Nga trong tháng 9, trong đó Các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất chiếm tỷ trọng cao nhất với 198 nghìn tấn, tiếp đến là Yemen với 38 nghìn tấn và Iraq với 26 nghìn tấn.
Bể chứa dầu tại Jebel Ali, phía nam Dubai (Ảnh: AP)
Lúc này, mọi sự chú ý đều đổ dồn về các cảng của Nga, để xem lượng tàu ra vào như thế nào. Các hệ thống theo dõi vệ tinh của phương Tây không bỏ sót bất kỳ chi tiết nào, ví dụ như vào ngày đầu tiên áp giá trần vào ngày 5 tháng 12, nhà cung cấp phân tích hàng hải MarineTraffic đã báo cáo rằng vẫn còn hai con tàu trống, một mang cờ Maltese, một mang cờ Liberia, lên đường đến Nga.
Nga cũng đang khám phá các tuyến đường mới, ngắn hơn để vận chuyển dầu tới châu Á, bao gồm cả việc đi qua Bắc Cực, tuy khó khăn hơn nhưng chỉ mất một nửa thời gian so với bình thường.
Link nguồn: https://cafef.vn/tac-dong-cua-viec-ap-gia-tran-doi-voi-thi-truong-dau-toan-cau-20221211141957405.chn