Theo ông, cuộc bầu cử ở Mỹ sẽ ảnh hưởng như thế nào đến chính sách và nền công nghiệp ở Việt Nam? Nếu có, ông có thể giải thích về sự ảnh hưởng sẽ như thế nào không?
Chiến tranh thương mại Mỹ – Trung có thể do Donald Trump khởi xướng. Joe Biden đắc cử không có nghĩa là chiến tranh thương mại kết thúc. Nhiều chủ đầu tư khu công nghiệp có thể lo ngại điều đó, nhưng thực tế không phải vậy. Điều đó sẽ không thể thay đổi trong một sớm một chiều và bất kể, các công ty đa quốc gia vẫn đang di chuyển ra khỏi Trung Quốc vì giá nhân công đang tăng ở đó. Vì vậy nó không ảnh hưởng ngay đến các khu công nghiệp ở Việt Nam.
So với các thị trường bất động sản công nghiệp khác trong khu vực ASEAN, ông đánh giá thế nào về những thuận lợi và khó khăn của lĩnh vực BĐS công nghiệp tại Việt Nam?
Việt Nam có rất nhiều lợi thế cạnh tranh so với các đối tác trong Châu Á. Ngoài chi phí nhân công rẻ, nhưng những năm gần đây, chúng ta có rất nhiều lợi thế như sự chủ động và lợi ích từ việc tham gia vào các hiệp định thương mại tự do như EVFTA hay CPTPP. Bên cạnh đó, Việt Nam có một nền chính trị ổn định, điều đó tác động tích cực đến môi trường kinh doanh kết. hợp với lực lượng lao động trẻ năng động.
Thị trường công nghiệp của chúng ta đã thu hút các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài tham gia. Theo ông, các nhà đầu tư trong nước cần cải thiện những điểm nào về hiệu quả hoạt động?
Phần lớn bất động sản công nghiệp được cung cấp bởi các nhà phát triển Việt Nam và các nhà đầu tư Việt Nam. Trong hơn 20 năm qua, chất lượng bất động sản công nghiệp đang diễn biến tốt. Điều này được cho thấy bởi sự gia nhập từ các chuyên gia, chủ đầu tư nước ngoài trong 10 năm qua và rất nhiều sự quan tâm trong 2-3 năm gần đây của các đối tác.
Hiện nay chúng ta nhận thấy sự cải thiện về chất lượng chào hàng, chất lượng của bất động sản và những thay đổi phức tạp hơn. Không chỉ bao gồm những ngành có giá trị thấp như hàng may mặc hay giày dép mà còn cả các lĩnh vực công nghệ cao, đòi hỏi tính chất bất động sản chuyên biệt hơn. Trong tương lai, chúng ta sẽ chứng kiến sự phát triển của các trung tâm dữ liệu, hệ thống tiện ích để đáp ứng nhu cầu lớn.
Giá đất công nghiệp đã tăng trong thời gian qua và người dân lo ngại xu hướng đó có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ lấp đầy cũng như gây lo ngại cho các nhà đầu tư. Xin ông cho biết quan điểm?
Chắc chắn, tại một số địa điểm hoặc một số tỉnh, việc tăng giá thuê đất có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ lấp đầy. Nếu giá thuê đất cao hơn trung bình, nó có thể là một vấn đề. Tuy nhiên, điều đó còn phụ thuộc vào chủ đầu tư. Có rất nhiều nhà đầu tư có giá trị cao như điện tử, công nghệ cao, họ lo ngại về giá thuê đất. Việt Nam đang cố gắng thu hút nhiều nhà đầu tư với các khoản đầu tư giá trị cao.
Một yếu tố khác cần quan tâm là chúng ta thấy có nhiều khu công nghiệp hơn, nguồn cung quỹ đất sẽ tăng lên như 561 khu công nghiệp trong tương lai. Khi chúng đi vào hoạt động, điều đó sẽ ảnh hưởng nhiều đến luật và giá thuê đất. Nhưng hiện tại, tại các tỉnh trọng điểm đã có tỷ lệ lấp đầy đồng nghĩa với việc quỹ đất còn lại sẽ có giá khá cao.
Lĩnh vực công nghiệp chứng kiến sự thiếu hụt nguồn cung và xu hướng đầu tư KCN của các nhà đầu tư, sau 9 tháng, ông đánh giá thế nào về diễn biến thị trường và những lo ngại này?
Trong những năm tới, đặc biệt là năm 2021 và 2022, tôi nghĩ chúng ta sẽ thấy sự quan tâm đổ dồn vào nguồn cung và Trung Quốc+1. Điều này sẽ ngày càng được các nhà sản xuất đa quốc gia theo đuổi khi các tập đoàn tìm cách giảm thiểu rủi ro và đa dạng hóa địa điểm. Việt Nam đang đứng đầu so với nhiều nước khác ngoài Trung Quốc và tôi nghĩ đây sẽ là một trọng tâm lớn trong những năm tới.
Về nguồn cung đất, như tôi đã trình bày trong báo cáo chính thức, chúng ta đang có một số dự án hấp dẫn sẽ ra mắt vào năm tới, đặc biệt là ở miền Bắc Việt Nam, nơi mà tôi nghĩ sẽ giúp thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Chúng ta có Vinhomes, các khu công nghiệp với rất nhiều khu công nghiệp mới ra mắt thị trường. Chúng ta có Kim Bac thành phố phía Bắc và TNI Holdings với các khu công nghiệp mới. Đây là nguồn cung cần thiết cho các tỉnh như Hải Phòng và Bắc Ninh. Sẽ rất thú vị khi thấy nhiều khoản đầu tư giá trị cao mà chúng ta có thể nhận được ở những địa điểm đó.
Ngoài làn sóng phát triển công nghiệp ở Indonesia, Philippines, Thái Lan, Ấn Độ, xin ông cho biết các nước này đã và đang áp dụng chính sách gì để thu hút các nhà đầu tư và phát triển thị trường? Về cơ sở hạ tầng của họ, liệu rằng họ có lợi thế hơn Việt Nam không?
Chính phủ Việt Nam đã tạo ra nhiều ưu đãi tại các khu vực kinh tế trên khắp cả nước. Việt Nam có nhiều lợi thế hấp dẫn về mặt địa lý, dân số lao động, chi phí đất đai, chi phí lao động, chi phí vận hành cùng với những chính sách phù hợp, thu hút các nhà đầu tư. Chính phủ có thể lập kế hoạch tương lai đảm bảo chất lượng cơ sở hạ tầng phát triển trong khu vực.
Chất lượng cơ sở hạ tầng nên phát triển hơn, không chỉ bắt kịp Indonesia, Thái Lan và các nước khác trong Đông Nam Á mà còn vượt ra khỏi tiêu chuẩn chung. Các yếu tố như chính sách gia nhập thị trường, khả năng cạnh tranh, lĩnh vực giáo dục luôn cần được cải thiện. Điều đó sẽ giúp Việt Nam đón nhận nhiều nhà đầu tư hơn.
Xin cảm ơn ông!