rủi ro không đồng đều
Giảm thuế. Giảm tiêu thụ điện năng. Nỗ lực tìm giải pháp thay thế nguồn cung cấp khí đốt từ Nga. Đây là những biện pháp của châu Âu khi nguồn cung cấp năng lượng bị cắt giảm.
Nga đã từng là nhà cung cấp khí đốt chính cho châu Âu trong một thời gian, nhưng khi nguồn cung này bị cắt, một số quốc gia sẽ dễ bị tổn thương hơn những quốc gia khác.
Ba Lan, Phần Lan và Slovakia phụ thuộc gần như hoàn toàn vào khí đốt của Nga do gần các đường ống cung cấp.
Đức, nền kinh tế lớn nhất châu Âu, cũng phụ thuộc vào Nga. Đến năm 2021, một nửa lượng khí đốt của Đức sẽ được nhập khẩu từ Nga. Đặc biệt là ngành công nghiệp hóa chất khổng lồ của Đức với hơn 300.000 nhân viên cũng cần sử dụng khí đốt làm nguyên liệu.
Tiếp theo đó là các quốc gia mà khí đốt chiếm tỷ trọng cao trong ngành năng lượng như Ý (40%), Hà Lan (37%), Hungary (33%) và Croatia (30%).
Dù phụ thuộc vào Nga ở các mức độ khác nhau nhưng các quốc gia này đều phải đối mặt với tình trạng lạm phát trầm trọng do giá xăng dầu cao kỷ lục.
Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng một số quốc gia đang tích cực tìm kiếm các giải pháp thay thế khí đốt của Nga.
Một trạm nén khí gần Włocławek, Ba Lan. Ảnh: Reuters
Dựa trên khí tự nhiên hóa lỏng (LNG)
Các nước châu Âu đang chuyển sang sử dụng LNG để giảm sự phụ thuộc vào khí đốt của Nga, vốn được vận chuyển chủ yếu bằng đường ống. Từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2022, EU đã nhập khẩu LNG kỷ lục.
Maartje Wijffelaars, nhà kinh tế cấp cao tại Rabo Research có trụ sở tại Hà Lan, nói với Al Jazeera rằng, trong số các quốc gia châu Âu, Ý là quốc gia tích cực tìm kiếm nguồn cung cấp LNG nhất.
Ông Wijffelaars cho biết ngay khi xung đột nổ ra, Ý đã bắt đầu tìm kiếm nguồn cung cấp khí đốt thay thế từ Azerbaijan, Algeria và Ai Cập.
Một số quốc gia, bao gồm Tây Ban Nha, Pháp và Ý, có lợi thế của người đi đầu do có các kho cảng LNG cố định hiện có so với các quốc gia châu Âu khác như Đức, vốn phụ thuộc vào đường ống.
Nhiều quốc gia châu Âu đang chuyển sang cảng LNG nổi vì mất ít thời gian xây dựng hơn cảng cố định trên đất liền.
Trong kế hoạch này, Đức đi đầu. Quốc gia này gần đây đã hoàn thành cảng đầu tiên trong số 5 kho cảng LNG nổi đã được lên kế hoạch. Sau khi hoàn thành, Đức sẽ trở thành một trong những quốc gia có công suất nhập khẩu LNG cao nhất châu Âu. Hy Lạp cũng có ý định xây dựng 5 cảng LNG nổi.
Nhưng sẽ phải mất ít nhất vài năm nữa các nước như Qatar, Australia và Mỹ mới có thể tăng sản lượng LNG cho châu Âu.
Thành viên cao cấp tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) Ben Cahill nói với Al Jazeera: ” Cho đến lúc đó, áp lực tăng giá năng lượng sẽ tiếp tục gia tăng “.
Trong những tháng gần đây, khu vực đồng euro đã chứng kiến lạm phát mạnh nhất kể từ khi thành lập; Khoảng 70% lạm phát trong tháng 9 là do giá năng lượng.
Nhưng một số quốc gia xử lý khủng hoảng tốt hơn những quốc gia khác.
Đức có ngành công nghiệp phụ thuộc vào khí đốt lớn nhất châu Âu. Ảnh: aljazeera
hạn chế giá
Pháp đã kiềm chế giá gas sinh hoạt ở mức tương đương tháng 10/2021 và hạn chế tăng giá điện năm 2022 ở mức 4% so với năm 2021. Mới đây nhất, nước này tuyên bố sẽ hạn chế tăng giá. điện và gas ở mức 15% vào năm 2023.
Nếu không có những biện pháp này, hóa đơn hộ gia đình của Pháp sẽ tăng hơn gấp đôi.
Đất nước này ít phụ thuộc vào khí đốt của Nga hơn nhiều nước châu Âu khác, vốn phụ thuộc nhiều hơn vào năng lượng hạt nhân.
Nhưng nhiều nhà máy điện hạt nhân đang được bảo trì, có nghĩa là Pháp phải đối mặt với tình trạng thiếu năng lượng. Tuy nhiên, việc trần giá xăng và điện giúp nước này giữ lạm phát ở mức thấp nhất EU trong 12 tháng qua.
Trên thực tế, từ tháng 9/2021, nhiều quốc gia châu Âu đã thành lập các quỹ tài chính để đối phó với khủng hoảng khi bắt đầu tắc nghẽn nguồn cung khí đốt ngay trong thời kỳ xung đột.
Các quốc gia đã bổ sung tài chính cho quỹ đó khi xung đột khiến giá dầu và khí đốt tăng cao.
Nhưng trong khi Pháp và Tây Ban Nha đang áp đặt trần giá và giảm giá nhiên liệu để giảm chi phí cao cho người dân, thì nhiều quốc gia, chẳng hạn như Đức, lại tập trung nhiều nhất vào việc hỗ trợ tài chính trực tiếp cho các nhóm dễ bị tổn thương, đồng thời thực hiện các bước như cắt giảm thuế.
Ví dụ, ở Áo, các hộ gia đình được giảm giá một lần 150 euro (158 đô la) cho hóa đơn năng lượng của họ, trong khi những người dễ bị tổn thương nhất được giảm giá gấp đôi.
Tuy nhiên, việc Đức tập trung vào các biện pháp tăng thu nhập hộ gia đình và doanh nghiệp đã góp phần làm tăng nhu cầu và thúc đẩy lạm phát.
Ngược lại, Pháp và Tây Ban Nha đã thực hiện các bước trực tiếp để kiềm chế lạm phát bằng cách kiểm soát giá điện. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 2023, Đức sẽ bắt đầu trợ cấp tiền điện cho người tiêu dùng. Động thái này sẽ làm giảm lạm phát.
Trong khi Pháp và Tây Ban Nha kiểm soát giá cả và Đức dẫn đầu về hỗ trợ tài chính, thì Vương quốc Anh lại gặp khó khăn.
Tỷ lệ lạm phát của nước này trong tháng 10 là 11,1%, đạt mức cao nhất trong 40 năm. Và không giống như Đức, nước này chỉ phân bổ khoảng 97 tỷ euro (103 tỷ USD), tương đương 3,5% GDP, để xử lý khủng hoảng.
Các chuyên gia cho biết toàn bộ khu vực châu Âu đang phải đối mặt với những vấn đề nhức nhối trong những tuần, tháng và năm tới khi các quốc gia khác nhau thực hiện các biện pháp khác nhau. Một trong những câu hỏi lớn nhất là: Các quốc gia có nên nghĩ về quốc gia của mình trước không?
Gần đây nhất, Đức đã công bố gói hỗ trợ mới trị giá 200 tỷ euro (210 tỷ USD) để đối phó với giá khí đốt tăng cao. Điều đó khiến các nước khác bất an khi EU kêu gọi các nước thành viên phối hợp ứng phó.
Link nguồn: https://cafef.vn/cung-chung-tay-doi-pho-nga-duc-bat-ngo-tung-quan-bai-dac-biet-khien-cac-nuoc-chau-au-nao-nung-bat-an-20221225215146801.chn