Được khởi công xây dựng từ ngày 18/6 nhưng đến nay, cả dự án đường Vành đai 3 TP.HCM và đường cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu giai đoạn 1 qua tỉnh Đồng Nai vẫn chưa đảm bảo mặt bằng để hoàn nguyên. dịch vụ đắp đê.
Theo tính toán của Sở GTVT tỉnh Đồng Nai, để thi công đường cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu giai đoạn 1 (34km) và đường vành đai 3 TP.HCM, đoạn qua tỉnh Đồng Nai (11km), cần các nhà thầu hơn 6 giờ. triệu m3 đất đắp đường.
Trong đó, tuyến cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu giai đoạn 1 có nhu cầu đắp khoảng 5,7 triệu m 3 . Tuy nhiên, cơ quan chức năng tỉnh Đồng Nai phối hợp với đơn vị chủ đầu tư khảo sát các mỏ vật liệu đắp nền tại Đồng Nai để xây dựng 2 dự án này thì chỉ có 2 mỏ đất san lấp. đang khai thác là mỏ Tân Cảng 7 và Núi Nưa với tổng trữ lượng còn lại khoảng 1,7 triệu m3 có thể đáp ứng.
Theo Sở Giao thông vận tải Đồng Nai, đến thời điểm này, với kết quả khảo sát các mỏ vật liệu đắp nền, với 2 dự án đường cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu giai đoạn 1 và Vành đai 3 TP.HCM, Đồng Nai vẫn đang sự thi công. còn thiếu hơn 4 triệu m3 đất. Việc không đủ quỹ đất để đắp nền có thể gây khó khăn cũng như ảnh hưởng đến tiến độ của các dự án.
Dự báo về tình trạng thiếu đất đắp, Ban quản lý dự án 85 (Bộ GTVT) – đơn vị được giao làm chủ đầu tư dự án thành phần 2, dự án đường cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu giai đoạn 1 đã có văn bản đề xuất gửi Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam (ACV) về việc nghiên cứu tận dụng đất thừa sau quá trình đào, hạ độ cao tại dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành để làm vật liệu đất san lấp phục vụ khai thác. Cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu giai đoạn 1.
Theo văn bản đề xuất, Ban quản lý dự án 85 cho biết, dự án Sân bay Long Thành đang được thi công san lấp và đào đất, khối lượng đất đá đào trong quá trình này tương đối lớn. Vì vậy, Ban Quản lý dự án 85 đề nghị ACV cho phép đơn vị này cùng các nhà thầu nghiên cứu, đánh giá chất lượng, phân loại và tận dụng lượng đất đào thừa tại sân bay Long Thành để làm vật liệu. kè đường cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu giai đoạn 1.
Tuy nhiên, theo Ban quản lý dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành, dự án Cảng hàng không Long Thành được xây dựng trên tổng diện tích 5.000 ha với khối lượng đào, đắp khoảng 115 triệu m3 đất. Trong quá trình lập dự án, thiết kế cơ sở, đơn vị tư vấn đã tính toán sơ bộ, đánh giá nguồn vật liệu san lấp giai đoạn 1 của dự án Sân bay Long Thành.
Việc san nền tại dự án sẽ lấy đất từ chỗ cao lấp chỗ thấp. Lượng đất thừa đang được tích trữ và dự kiến dùng để san lấp sân bay khi triển khai giai đoạn 2 sau năm 2030. Có thể giai đoạn 2 sẽ thiếu 1-2 triệu m3 đất để san lấp. Do đó, khó đáp ứng việc sử dụng quỹ đất dư thừa của dự án sân bay giai đoạn 1 để làm đất kè dự án đường cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu như đề xuất.
Theo Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường Đồng Nai Nguyễn Ngọc Hùng, các nhà thầu phải chủ động xin phép khai thác đất để phục vụ dự án. Cơ quan nhà nước sẽ hướng dẫn thủ tục cấp phép. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Khoáng sản và Luật Đất đai, thủ tục cấp phép vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc, nếu không nhanh chóng tháo gỡ sẽ ảnh hưởng đến tiến độ thi công của các dự án.
Ông Hùng cho biết, không chỉ các dự án của Trung ương mà các dự án của tỉnh, huyện hiện nay đều thiếu đất để san lấp. Tỉnh đã kiến nghị Bộ Giao thông vận tải cho phép sử dụng quỹ đất dôi dư của dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn 1 để thực hiện các dự án giao thông trọng điểm quốc gia và địa phương.
Ngoài ra, để chuẩn bị nguồn vật liệu cho các dự án trên địa bàn, tỉnh Đồng Nai đã quy hoạch, cắm mốc giới 95 khu vực với diện tích hơn 500 ha không đấu giá quyền khai thác khoáng sản làm vật liệu san lấp. Tuy nhiên, việc thu hút các nhà đầu tư thực hiện các dự án khai thác khoáng sản làm vật liệu san lấp là rất khó khăn do thủ tục cấp phép phức tạp.
Link nguồn: https://cafebiz.vn/vanh-dai-3-cao-toc-bien-hoa-vung-tau-nguy-co-cham-tre-vi-thieu-dat-dap-nen-176230710203101713.chn