Tính đến cuối tháng 3/2024, dư nợ tín dụng ghi nhận mức tăng trưởng 0,26% so với cuối năm 2023, mức tăng thấp hơn 1,73 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm ngoái. Đáng chú ý, đến cuối tháng 1/2024, tín dụng nền kinh tế giảm 0,68% so với cuối năm 2023, tốc độ giảm trong tháng 2 chậm lại và đến tháng 3 lại tăng dương (NHNN, tháng 3/2024).
TÍN DỤNG 2 THÁNG ĐẦU NĂM GIẢM
Tín dụng 2 tháng đầu năm giảm ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế (Biểu đồ 1), ngoại trừ 2 lĩnh vực là bất động sản và kinh doanh chứng khoán. Tính đến cuối tháng 2/2024, tín dụng vào lĩnh vực bất động sản tăng 0,23%, tín dụng vào lĩnh vực chứng khoán tăng 2,56% so với cuối năm 2023.
Tăng trưởng tín dụng bình quân trước đại dịch Covid-19 giai đoạn 2016-2019 là 16,3%/năm, cao hơn nhiều so với mức tăng trưởng bình quân giai đoạn 2020-2023 là 13,2%/năm. Tuy nhiên, ngoại trừ quý I/2020 có mức tăng trưởng tín dụng thấp 1,31% do giãn cách xã hội, tăng trưởng tín dụng quý I các năm 2021-2023 vẫn tương tự, thậm chí có năm cao hơn trong một số năm (2022). . nhiều mức trung bình của giai đoạn 2015-2024.
Số liệu thống kê trong 10 năm qua cho thấy tăng trưởng tín dụng hàng tháng, hàng quý của Việt Nam chưa bao giờ giảm so với cuối năm trước, dù tăng trưởng quý I hàng năm thấp do tính thời vụ. Nền kinh tế mở rộng theo quy mô nên luôn sử dụng tín dụng một cách mạnh mẽ.
Lãi suất cho vay bình quân giảm nhưng không thúc đẩy tăng trưởng tín dụng như kỳ vọng. Lãi suất cho vay bình quân của các ngân hàng thương mại được Ngân hàng Nhà nước quy định đối với dư nợ mới và cũ ở mức 7,8-10,1%/năm.
Lãi suất cho vay ngắn hạn bình quân bằng VNĐ đối với các lĩnh vực ưu tiên khoảng 3,7%/năm, thấp hơn lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa theo quy định của Ngân hàng Nhà nước (4%/năm).
Ngân hàng có lãi suất cho vay bình quân thấp nhất là VietinBank, ở mức 6,3%/năm, trong khi ngân hàng có lãi suất cho vay cao nhất là SaiGonBank, đạt 9,9%/năm. Lãi suất cho vay bình quân của các ngân hàng thương mại (không bao gồm các ngân hàng không công bố thông tin) là 7,9%/năm. Nhìn chung, các ngân hàng nhỏ thường duy trì mức chênh lệch lãi suất bình quân giữa cho vay và huy động cao hơn.
CHAI TĂNG TRƯỞNG TÍN DỤNG
Tăng trưởng tín dụng gần như không tăng trưởng trong 4 tháng đầu năm 2024 trong bối cảnh lãi suất giảm, phản ánh sự khó khăn của doanh nghiệp do ảnh hưởng của thị trường thế giới, thị trường trong nước cũng như khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp.
Quý 1 năm 2024 chứng kiến sự phục hồi chậm chạp của các nền kinh tế lớn trên thế giới. Tại Mỹ, tăng trưởng GDP quý I/2024 dự kiến tăng 2,4% so với cùng kỳ năm ngoái, thấp hơn mức tăng 3,2% trong quý IV/2023 và đạt 2,5% cho cả năm 2023, cao hơn mức tăng trưởng GDP quý I/2024. tăng 1,9% vào năm 2022.
Tại EU, dự báo tăng trưởng quý I ở mức khiêm tốn nhưng đã cải thiện so với mức 0% trong quý IV/2023, trong đó các nền kinh tế lớn tăng trưởng yếu như Anh, Đức với mức tăng trưởng âm 0,3%. trong quý 4 năm 2023 và đều ghi nhận mức tăng trưởng âm lần thứ 6 từ quý 1/2020 đến quý 4/2023.
Tại Trung Quốc, GDP quý 1 năm 2024 tăng 5,3% và cả năm 2023 tăng 5,2% so với mức tăng 3% của năm 2022, tuy nhiên mức phục hồi giữa các ngành không đồng đều. Nhật Bản tăng trưởng 0,54% trong quý 1 năm 2024, phục hồi từ mức tăng 0,1% trong quý 4 năm 2023 và mức tăng trưởng âm 0,8% trong quý 3 năm 2023, thoát khỏi khủng hoảng kỹ thuật.
KINH TẾ THẾ GIỚI CÒN NHIỀU KHÓ KHĂN
Kinh tế thế giới 4 tháng đầu năm gặp nhiều khó khăn, do cạnh tranh chiến lược gay gắt giữa các nước lớn. Căng thẳng địa chính trị Nga – Ukraine, Israel – Hamas – Iran leo thang và mối lo ngại lan rộng khiến giá vàng, năng lượng tăng cao trong tháng 4/2024, đặc biệt là giá vàng, liên tục lập kỷ lục (18/4/2024). Tháng 4/2024, giá vàng ở mức hơn 2.378 USD/ounce, mức cao nhất trong lịch sử loài người và chưa có dấu hiệu giảm). Xung đột ở Biển Đỏ đã khiến giá cước logistics tăng từ 750 USD/container lên 6.800 USD/container (Cơ quan quản lý kênh đào Suez, SCA).
Theo Cục Hàng hải Việt Nam, giá vận chuyển container từ châu Á đi châu Âu, châu Mỹ hiện nay cao hơn khoảng 88% so với giá trước đại dịch Covid-19. Theo đó, giá cước từ Việt Nam tới cảng Tây Mỹ là 2.650 USD/container 40 feet, đến cảng Đông Mỹ là 3.900 USD/container 40 feet, đi Châu Âu là 4.900 USD/container 40 feet. Những diễn biến trên làm dấy lên lo ngại về sự gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu, tác động đến lạm phát và kế hoạch đảo ngược chính sách tiền tệ.
Chỉ số USD (DXY) kết thúc quý 1/2024 với mức tăng gần 3% và tăng 1-2 điểm phần trăm so với mức trung bình 104 điểm cuối tháng 3/2024, sau khi Fed cho biết chưa thể tung lãi suất. chu kỳ cắt giảm ít nhất là đến tháng 6/2024 do lạm phát chưa giảm như kỳ vọng.
Trước áp lực tăng giá của USD, tại Trung Quốc, đồng Nhân dân tệ (CNY) mất giá mạnh nhất trong 4 năm qua khi nỗ lực duy trì tỷ giá của Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBoC) không hiệu quả. Hàng Trung Quốc rẻ hơn, kéo doanh nghiệp vào cuộc chiến giảm giá, làm suy yếu sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam.
Đồng thời, xu hướng giảm tốc độ tăng trưởng ở Trung Quốc khiến tổng cầu tại quốc gia có dân số chiếm 17,6% dân số thế giới này suy giảm. Điều này có thể gây ra thách thức cho Việt Nam trong bối cảnh chúng ta phụ thuộc vào xuất khẩu, hàng hóa Việt mất đi lợi thế về chi phí nguyên liệu rẻ khi nhu cầu tiêu dùng sụt giảm.
Cùng với việc xuất khẩu giảm, giá nguyên liệu thô của Trung Quốc trở nên rẻ hơn sẽ thúc đẩy nhập khẩu của Việt Nam. Tình trạng dư cung của Trung Quốc cũng thúc đẩy thương mại điện tử, thương mại phi chính thức và chính thức giữa hai nước. Hàng Trung Quốc giá rẻ tràn vào thị trường Việt Nam đang làm suy yếu sức khỏe của doanh nghiệp trong nước, khiến doanh nghiệp Việt mất thị phần ngay trên sân nhà…
Nội dung bài viết được đăng trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 17-2024 xuất bản ngày 22/4/2024. Mời độc giả thân mến đọc tại đây:
https://postenp.phaha.vn/chi-tiet-toa-soan/tap-chi- Kinh-te-viet-nam
Link nguồn: https://vneconomy.vn/nhan-dien-nut-that-tin-dung-ho-tro-doanh-nghiep-tiep-can-von-vay.htm