PGS. PGS.TS Nguyễn Thị Nga – Trưởng Bộ môn Luật Đất đai và Kinh doanh BĐS, Khoa Luật Kinh tế (Trường Đại học Luật Hà Nội) cho biết: Việc công nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân gặp nhiều khó khăn, phức tạp khi quan niệm hộ gia đình theo Khoản 26 Điều 3 là không hợp lý, trên thực tế không thể thực hiện được.
Các quy định hiện hành gây khó khăn trong việc xác định quyền sử dụng đất thuộc về thành viên nào trong gia đình một cách hợp lý và chính xác.
“Xảy ra nhiều hệ lụy, nhiều quan điểm khác nhau về hộ gia đình sử dụng đất, mà nguyên nhân là do Luật Đất đai hiện hành chưa quy định rõ ràng, cụ thể về khái niệm hộ gia đình, căn cứ xác lập quyền sử dụng đất của hộ gia đình, về giải quyết vướng mắc do trước đây cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình mà không ghi rõ ai trong hộ gia đình được quyền sử dụng đất và hiện nay quyền sử dụng đất đang phát sinh tranh chấp, mâu thuẫn giữa Luật đất đai và pháp luật khác có liên quan đến hộ gia đình làm phát sinh nhiều những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn triển khai” – theo PGS. PGS.TS Nguyễn Thị Nga.
Bà Nga giải thích: Theo quy định tại Khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai 2013, để được coi là thành viên của “hộ gia đình” sử dụng đất thì phải đáp ứng các dấu hiệu sau: Thứ nhất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống. và nuôi con theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình. Thứ hai, các đối tượng trên phải đang sống chung và có chung quyền sử dụng đất tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất.” Thành viên không đáp ứng hai yếu tố trên thì không được coi là thành viên của hộ gia đình sử dụng đất.
Thứ nhất, xét về vấn đề huyết thống khi công nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình còn nhiều quan niệm khác nhau. Việc xác định quan hệ huyết thống theo quy định của pháp luật Việt Nam còn chưa thống nhất, theo đó khi xem xét công nhận quyền sử dụng đất nếu căn cứ vào các luật khác nhau sẽ có kết quả khác nhau.
Cụ thể: Theo quy định của BLDS 2015, việc xác định quan hệ huyết thống làm căn cứ xác định quan hệ thừa kế theo pháp luật được tính đến là 3 thế hệ. Tương tự, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 cũng xác định khái niệm gia đình, các thành viên trong gia đình và cách xác định quan hệ huyết thống cũng được xác định là 03 đời. Trong khi đó, Luật Quốc tịch 2018 khi xác định quốc tịch theo nguyên tắc huyết thống thì chỉ xét đến đời cha mẹ.
Như vậy, khi xem xét công nhận quyền sử dụng đất đối với trường hợp đất không có giấy tờ nhưng đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 101 Luật đất đai 2013 mà trong hộ gia đình có nhiều các thành viên cùng chung sống nhiều thế hệ và dựa trên quan hệ huyết thống để công nhận quyền sử dụng đất cho các thành viên thì không biết trường hợp này áp dụng quy định của pháp luật nào để thực hiện cho đúng?
Trên thực tế, việc xác định quan hệ huyết thống để xác định quan hệ tài sản thường được áp dụng theo tinh thần của Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Thuế thu nhập cá nhân và cho là công bằng. Nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho hộ gia đình theo quan hệ huyết thống cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Luật Quốc tịch hoàn toàn không áp dụng trong trường hợp này.
Thứ hai, vấn đề nuôi dưỡng: Việc xét công nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình dựa trên quan hệ nuôi dưỡng cũng là một phạm vi khá rộng và gây ra nhiều phức tạp, vướng mắc. Theo đó, nếu xét về quan hệ nuôi dưỡng sẽ không còn giới hạn bởi quan hệ huyết thống hay hôn nhân, khái niệm hộ gia đình trong trường hợp này thường căn cứ vào hộ khẩu (bao gồm cả những người được xác định theo quan hệ hôn nhân). cá nhân, người có quan hệ huyết thống và người không có quan hệ hôn nhân, huyết thống) cũng được ghi trên Giấy chứng nhận nếu chứng minh được quan hệ nuôi dưỡng.
Cần xây dựng lại khái niệm hộ gia đình sử dụng đất trong Luật Đất đai để bảo vệ quyền lợi của người sử dụng đất (Ảnh: LV)
Điều này sẽ hợp lý trong trường hợp mảnh đất các thành viên đang sử dụng không thay đổi về diện tích, sổ hộ khẩu cũng không có sự khác biệt về số thành viên sinh sống trên mảnh đất đó. Tuy nhiên, vấn đề sẽ trở nên phức tạp hơn và không xác định được quyền sử dụng đất một cách chính xác, công bằng khi xem xét công nhận quyền sử dụng đất đối với trường hợp thay đổi diện tích, sai sót. khác nhau về số thành viên trong hộ gia đình đó.
Thứ ba, hộ gia đình được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất trong trường hợp hộ gia đình sử dụng đất không có giấy tờ, nhưng nguồn gốc đất khi xét công nhận, cấp Giấy là phức tạp. Do tính phức tạp nên khó xác định quyền sử dụng đất thuộc về thành viên nào trong gia đình một cách hợp lý và chính xác.
Theo PGS. TS Nguyễn Thị Nga, cần xây dựng lại khái niệm hộ gia đình sử dụng đất trong Luật Đất đai sửa đổi trên cơ sở làm rõ phạm vi, chủ thể quyền sử dụng đất của hộ gia đình đối với trường hợp hộ gia đình. gia đình có nhiều thành viên, thuộc nhiều thế hệ, có nhiều mối quan hệ đan xen như: quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng… để bảo vệ quyền lợi của người sử dụng đất là con dâu, là vợ, cháu gái khi chung sống với gia đình nhưng mảnh đất đó chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Link nguồn: https://cafef.vn/luat-dat-dai-sua-doi-lam-ro-khai-niem-ho-gia-dinh-su-dung-dat-20221118062921411.chn