SSI Research vừa đưa ra báo cáo cập nhật triển vọng của nhóm ngân hàng, nhấn mạnh tốc độ phục hồi của nhóm này vẫn còn chậm và các yếu tố cơ bản sẽ rõ ràng hơn từ cuối năm 2024.
Lợi nhuận trước thuế danh sách ngân hàng được theo dõi tăng trưởng nhẹ khoảng 8,3% so với cùng kỳ hay 4,6% so với quý trước do NIM tiếp tục chịu áp lực giảm 8 điểm cơ bản so với quý trước trong bối cảnh tín dụng yếu tăng trưởng tăng 2% so với đầu năm, tăng 15% so với cùng kỳ.
Trong khi đó, chất lượng tài sản lại suy giảm sau khi cải thiện trong quý 4/2023 do yếu tố mùa vụ. Cụ thể, tỷ lệ nợ nhóm 2 và nợ xấu trên tổng dư nợ lần lượt là 2,23%, tăng 24 điểm cơ bản so với quý trước và 1,94%, tăng 23 điểm cơ bản so với quý trước. đỉnh. trong quý 3/2023 là 1,98%.
Thu nhập từ kinh doanh ngoại hối tăng trưởng tốt phần nào bù đắp cho sự sụt giảm mạnh từ hoạt động bancassurance và thu nhập từ xử lý nợ khó đòi. Ngoài ra, việc kiểm soát tốt chi phí hoạt động trong Q1/2024 với tỷ lệ CIR là 30,7% so với 31% trong Q1/2023 và 36% trong Q4/2023 cũng là một yếu tố hỗ trợ kết quả kinh doanh. kinh doanh của các ngân hàng.
Về tăng trưởng tín dụng, tăng trưởng tín dụng vẫn rất yếu so với đầu năm, chỉ có TCB và HDB đạt mức tăng trưởng mạnh lần lượt là 7,1% và 6,2% so với đầu năm.
Khách hàng doanh nghiệp vẫn là động lực tăng trưởng chính, chủ yếu là cho vay ngắn hạn. Mặc dù có một số dấu hiệu tích cực về việc giải ngân mới cho các khoản vay mua nhà nhưng dư nợ cuối kỳ vẫn chưa được cải thiện do hoạt động trả nợ các khoản vay cũ.
Xét về các lĩnh vực kinh tế, hoạt động thương mại dịch vụ, phát triển bất động sản và môi giới chứng khoán là động lực chính cho VPB; sản xuất & bất động sản tại MBB; bất động sản & công nghệ tại TCB; xây dựng HDB; Vay vốn lưu động tại ACB. Ngoài ra, dư nợ tín dụng tài chính tiêu dùng cũng có những chuyển biến tích cực tại HDSaison & MCredit khi không thay đổi so với cuối năm 2023 tại FeCredit.
Về chất lượng tài sản, sau khi cải thiện trong quý 4/2023 do yếu tố mùa vụ, nợ nhóm 2 và nợ xấu tăng trở lại ở hầu hết các ngân hàng trong quý 1/2024 ngoại trừ OCB. Tỷ lệ hình thành nợ xấu tăng mạnh lên 2,01% so với mức 1,12% của quý 4/2023 hay 1,9% của quý 2 và quý 3/2023. Chênh lệch nợ xấu trước và sau CIC tăng khá nhiều trong kỳ, đặc biệt ở một số ngân hàng như MBB, VPB, MSB và HDB. Tuy nhiên, chi phí tín dụng vẫn chưa tăng tương ứng với tỷ lệ hình thành nợ xấu trong quý 1/2024 ngoại trừ CTG. Vì vậy, SSI Research cho rằng gánh nặng dự phòng có thể vẫn tiếp tục kéo dài trong các quý tới.
Về xu hướng NIM, mặc dù lãi suất huy động bình quân cải thiện đáng kể lên 3,81%, giảm 210 điểm cơ bản so với đỉnh quý 2/2023 hoặc giảm 85 điểm cơ bản so với quý trước, NIM vẫn gặp khó khăn. áp lực nhất định 3,47%, tương ứng giảm 8 điểm cơ bản so với quý trước do tín dụng yếu và cạnh tranh mạnh mẽ hơn giữa các ngân hàng.
VCB, TCB, OCB là số ít ngân hàng có NIM hồi phục. Đối với OCB, sự phục hồi chủ yếu nhờ nền tảng thấp từ Q4/2023. Đối với TCB, cần quan sát thêm vì NIM tăng đi kèm theo lãi dự thu tăng mạnh 20% so với quý trước.
Nhìn chung, tốc độ phục hồi vẫn còn chậm và SSI Research kỳ vọng sự phục hồi ở các yếu tố cơ bản sẽ rõ rệt hơn trong nửa cuối năm 2024. Tuy nhiên, SSI sẽ xem xét lại một số ước tính để phù hợp hơn. với tình hình hiện nay của thị trường nói chung và ngành ngân hàng nói riêng.
Lợi nhuận nhóm ngân hàng cập nhật của FiinGroup tính đến ngày 5/5 ghi nhận mức tăng khiêm tốn ở ngành Ngân hàng, tăng 9,6% trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng thấp và chi phí dự phòng rủi ro tín dụng tăng. Mức tăng trưởng này thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng dự kiến cho cả năm 2024 (+19%) cũng như kỳ vọng của các nhà phân tích trong quý đầu tiên là 12-15%.
Link nguồn: https://vneconomy.vn/trong-doi-gi-o-nhom-ngan-hang-sau-khi-loi-nhuan-gay-that-vong-trong-quy-1-vua-qua.htm