Tín dụng bất động sản tăng mạnh
Trong tờ trình vừa gửi Quốc hội về tình hình thực hiện Nghị quyết số 62/2022 / QH15 về hoạt động chất vấn và Nghị quyết số 63/2022 / QH15 về Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. của Việt Nam. Nam Nguyễn Thị Hồng cho biết: Tính đến cuối tháng 9, tín dụng đạt gần 11,6 triệu tỷ đồng, tăng xấp xỉ 11% so với cuối năm ngoái – mức cao nhất so với cùng kỳ trong nhiều năm, phù hợp với tình hình kinh tế. sự hồi phục. thuộc kinh tế.
Cơ cấu tín dụng tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên, sản xuất kinh doanh, còn các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro được kiểm soát chặt chẽ. Chẳng hạn, tín dụng vào lĩnh vực nông, lâm, thủy sản tăng gần 7,6%; ngành xây dựng xấp xỉ 7,4%; thương mại dịch vụ tăng 11,34%. Một số lĩnh vực khác như nông nghiệp, nông thôn tín dụng tăng gần 9,3%; xuất khẩu tăng gần 2,7%; công nghiệp hỗ trợ 11,6% …
Đáng chú ý, đến cuối tháng 8, tín dụng vào lĩnh vực bất động sản tăng gần 15,7% so với cuối năm 2021, và tăng khoảng 3,7% so với 3 tháng trước đó. Với tốc độ này, tín dụng “chảy” vào bất động sản chiếm hơn 20,9% tổng dư nợ nền kinh tế, tăng 0,26% so với tháng Năm.
Theo Ngân hàng Nhà nước, tín dụng bất động sản chủ yếu tập trung vào cho vay tự có, tăng hơn 20,1%; kinh doanh bất động sản tăng 7,35%.
Trong khi vốn vào bất động sản tăng mạnh thì vốn đổ vào đầu tư, kinh doanh chứng khoán lại giảm mạnh hơn 35%, chiếm 0,32% tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống ngân hàng.
Tương tự, tín dụng vào các dự án BOT, BT giao thông cũng giảm, đến cuối tháng 6 giảm 1,72% so với cuối năm 2021 và chiếm 0,88% tổng dư nợ tín dụng.
Dù bị “khống chế” nhưng tín dụng bất động sản vẫn tăng 15,7%
Ngân hàng Nhà nước cho biết đã áp dụng các biện pháp giám sát chặt chẽ tốc độ tăng trưởng dư nợ và chất lượng tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao, nhất là đầu tư, kinh doanh bất động sản, chứng khoán. và trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ… cũng như triển khai các giải pháp giám sát và đảm bảo an toàn hoạt động.
Một số văn bản quy phạm pháp luật về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hệ thống ngân hàng đã được cơ quan quản lý tiền tệ ban hành nhằm giám sát chặt chẽ và đưa ra cảnh báo sớm về cấp tín dụng đối với các lĩnh vực rủi ro. Theo Ngân hàng Nhà nước, việc thanh tra, kiểm tra hoạt động cấp tín dụng tiềm ẩn rủi ro sẽ được đưa vào kế hoạch thanh tra chuyên ngành hàng năm.
Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các tổ chức tín dụng khi cung cấp vốn cho lĩnh vực bất động sản phải tăng cường kiểm tra chất lượng tín dụng, thẩm định, giám sát việc sử dụng vốn vay, … nhằm hạn chế nợ xấu phát sinh, đảm bảo an toàn. dòng vốn đến đúng đích.
“Các ngân hàng cũng cần hạn chế dòng vốn tín dụng đổ vào một số khách hàng, nhóm khách hàng lớn, dự án bất động sản quy mô lớn, thay vào đó nên dồn vốn vào các dự án nhà ở xã hội”. , nhà ở thương mại hiệu quả cao, dự án vay vốn khả thi, đảm bảo tính pháp lý, thanh khoản tốt … ”- báo cáo nêu rõ.
Nhiều thách thức trong điều hành chính sách tiền tệ
Tại báo cáo này, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cũng đề cập đến nhiều thách thức trong điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là lãi suất và tỷ giá thời gian tới trong bối cảnh áp lực lạm phát ngày càng gia tăng.
“Lạm phát so với cùng kỳ cuối năm 2022 dự báo sẽ vượt 4%, thách thức mục tiêu kiểm soát lạm phát từ đầu năm 2023” – lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước nhận xét.
Việc giảm lãi suất cho vay theo chỉ đạo của Quốc hội trong thời gian tới, theo cơ quan quản lý tiền tệ, sẽ gặp nhiều khó khăn, do các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới tiếp tục thu hẹp, nới lỏng chính sách tiền tệ, tăng lãi suất nhanh và mạnh. Ngoài ra, lạm phát trong và ngoài nước gia tăng do giá nguyên liệu thế giới tăng, chi phí vận tải tăng, nguồn cung gián đoạn và tác động chậm trễ của chính sách tài khóa và tiền tệ nới lỏng từ năm 2020.
Hiện lãi suất cho vay đã xuống mức thấp và đang tăng trở lại chủ yếu do nhu cầu tín dụng tăng và lãi suất huy động tăng. Đáng chú ý, mặt bằng lãi suất tiết kiệm đã tăng lên ngang với trước đợt dịch, trong đó các ngân hàng trả lãi 8,7% cho người gửi tiền trực tuyến.
Tỷ giá USD / VND tăng gây áp lực lên lãi suất VND
Tỷ giá USD / VND tăng gây áp lực lên lãi suất VND. Từ ngày 17/10, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nới biên độ tỷ giá giao ngay giữa đồng Việt Nam và đô la Mỹ từ 3% lên 5%. Với biên độ mới này, giá USD tại các ngân hàng thương mại sẽ được điều chỉnh tăng hoặc giảm tối đa 5% so với tỷ giá trung tâm do Ngân hàng Nhà nước công bố hàng ngày. Nói cách khác, tỷ giá tại các ngân hàng sẽ có thêm 2% dư địa để điều chỉnh tăng hoặc giảm so với trước đây.
Một thách thức khác được Thống đốc đề cập là áp lực vốn tín dụng ngân hàng tăng cao trong bối cảnh nền kinh tế cần vốn để phục hồi nhưng các nguồn vốn khác lại không thuận lợi. Chẳng hạn, thị trường vốn (trái phiếu doanh nghiệp, chứng khoán) đã nảy sinh những bất cập, phát triển chưa đúng với vai trò cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Vốn đăng ký đầu tư trực tiếp nước ngoài so với cùng kỳ năm 2021 và lượng kiều hối giảm.
“Tỷ lệ tín dụng trên GDP, nhất là từ năm 2020, tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với hệ thống tài chính” – Ngân hàng Nhà nước nhận xét.
Ngân hàng Nhà nước cũng trích dẫn đánh giá của các tổ chức quốc tế như IMF, WB và các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc gia. Việt Nam. Theo Ngân hàng Thế giới, Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ tín dụng trên GDP cao nhất thế giới.
Moody’s cũng cảnh báo tỷ lệ tín dụng / GDP trong nước và tổng tài sản ngân hàng trong nước / GDP lần lượt tăng lên 124% và 17% – mức cao nhất của các nước xếp hạng Ba và Baa, cảnh báo về nguy cơ bất ổn vĩ mô.
Một thách thức khác đối với công tác quản lý tiền tệ được Ngân hàng Nhà nước xác định là việc giải ngân ngân sách chậm so với thực tế, dẫn đến bội chi ngân sách nhà nước (ngân sách thu từ nền kinh tế qua thuế). , thu nhập từ phát hành trái phiếu…) ở mức cao, tích lũy ngày càng nhiều không sử dụng làm giảm lượng tiền trong nền kinh tế.
Nguồn cung về ngân sách bị ứ đọng nhưng nhu cầu vốn lớn để phục vụ sản xuất kinh doanh, phục hồi kinh tế … khiến việc giảm lãi suất ngày càng khó khăn.