Kể từ năm 2018 đến nay, thị trường bất động sản liên tục sụt giảm về nguồn cung bất động sản. Tổng hợp số liệu từ báo cáo của các đơn vị nghiên cứu thị trường cho thấy, tại Hà Nội, tổng nguồn cung căn hộ mới năm 2018 là hơn 39.084 sản phẩm nhưng đến năm 2019 đã giảm xuống còn gần 22.500 sản phẩm. . Năm 2020, nguồn cung căn hộ tiếp tục giảm xuống còn 16.350 sản phẩm. Năm 2021, số lượng căn hộ chào bán vẫn ở mức 16.841 sản phẩm. Trong 9 tháng đầu năm 2022, chỉ có gần 8.700 sản phẩm mới.
Tương tự, trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, tổng nguồn cung căn hộ năm 2018 là 44.851 sản phẩm thì năm 2019 giảm mạnh xuống còn 25.100 sản phẩm, tương ứng 44%. Và đến năm 2020, căn hộ tại TP. HCM tiếp tục giảm tới 21.300 sản phẩm. Đến năm 2021, nguồn cung tại TP. HCM giảm sâu tới 13.583 sản phẩm. Trong 9 tháng đầu năm 2022, nguồn cung khoảng 15.000 sản phẩm.

Trong bối cảnh hiện nay, dòng tiền từ tín dụng ngân hàng và trái phiếu đang bị thắt chặt là một phần nguyên nhân ảnh hưởng đến nguồn cung căn hộ trên thị trường bất động sản. Nhiều chuyên gia dự báo, nếu dòng tiền tiếp tục khó khăn, các nhà đầu tư thiếu vốn sẽ không thể tiếp tục triển khai các dự án dở dang và mới, nguồn cung có khả năng tiếp tục giảm.
Theo TS Sử Ngọc Khương, Giám đốc cấp cao Savills Việt Nam, từ nay đến cuối năm 2022, thị trường sẽ không có nhiều biến động, nguồn cung mới sẽ không nhiều. “Nguồn cung tại TP. HCM và Hà Nội sẽ không có đột biến, thanh khoản cũng thấp…, nhưng giá nhà sẽ tiếp tục tăng ”, ông Khương nhận định.
Cùng chung quan điểm, CBRE Việt Nam cũng cho rằng, cuối năm 2022 sẽ tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức. Cụ thể, nguồn cung tiếp tục hạn chế, đặc biệt là ở phân khúc trung cấp và bình dân. Đối với những người mua để ở sẽ không có nhiều lựa chọn vì phần lớn nguồn cung mới sẽ tập trung ở phân khúc cao cấp trở lên.
Theo đại diện đơn vị này, mặc dù chính sách thắt chặt tín dụng đang dần được nới lỏng nhưng việc tiếp cận vốn vẫn vô cùng khó khăn đối với cả nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư tổ chức (chủ đầu tư dự án). bản án). Việc khó tiếp cận vốn ngân hàng cộng với việc giá nhà liên tục tăng khiến thanh khoản của thị trường giảm đi ít nhiều. Tuy nhiên, do nguồn cung hạn chế trong khi nhu cầu vẫn được duy trì nên sức hấp thụ trên thị trường vẫn ở mức khả quan.

Theo ông Nguyễn Văn Đính, Phó Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Việt Nam, nguồn cung bất động sản trên thị trường sụt giảm một phần do khó khăn về vốn, nhất là sau những động thái siết chặt quản lý ngành bất động sản. Các cơ quan chức năng đã “nới” tín dụng cho thị trường bất động sản và việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp được kiểm soát chặt chẽ.
Ông Đính cũng cho rằng, khi nguồn vốn đổ vào bất động sản bị hạn chế sẽ ảnh hưởng đến nhiều nhóm đối tượng trên thị trường. Trước hết, các nhà phát triển bất động sản. Hiện vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp bất động sản thường chỉ đủ để đền bù, giải phóng mặt bằng và nộp thuế đất.
Để đầu tư xây dựng công trình và hạ tầng dự án, chủ đầu tư phải tiếp cận nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng, phát hành trái phiếu và huy động từ khách hàng. Vì vậy, nếu dòng vốn bị ngưng trệ, các dự án bất động sản phải lập tức tạm dừng triển khai.
Nhóm bị ảnh hưởng thứ hai là các ngành nghề kinh doanh liên quan như vật liệu xây dựng, máy móc thiết bị, nội thất,… Đây là nhóm đối tượng sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp từ việc chủ sở hữu chậm nộp tiền. đầu tư, và bị ảnh hưởng gián tiếp bởi hệ quả chung khi thị trường bất động sản trầm lắng.
Bên cạnh đó, bản thân hệ thống ngân hàng thương mại cũng đứng trước nguy cơ nợ xấu gia tăng khi các dự án bất động sản không thể hoạt động. Ngoài ra, nhóm khách hàng có nhu cầu mua nhà cũng gặp nhiều khó khăn trong việc lựa chọn sản phẩm ưng ý. Mặt khác, chủ trương quy hoạch, kế hoạch phát triển hạ tầng đô thị, nhà ở của các địa phương cũng bị ảnh hưởng, khó hoàn thành mục tiêu đề ra …
Link nguồn: https://cafef.vn/doanh-nghiep-bat-dong-san-khat-von-tac-dong-the-nao-toi-thi-truong-20221031081809745.chn