Cách đây khoảng 16 năm, thị trường chứng khoán Việt Nam lần đầu tiên lập đỉnh lịch sử khi chỉ số VN-Index đóng cửa ngày 12/3/2007 ở mức 1.170,67 điểm. Từ mốc 300 điểm đầu năm 2006, chỉ số này đã tăng một mạch 3,9 lần trong vòng hơn một năm. Giá trị vốn hóa thị trường cũng vượt 400.000 tỷ đồng, tương đương hơn 40% GDP.
Động lực tạo nên sự tăng trưởng mạnh trong giai đoạn đó đến từ làn sóng thoái vốn, cổ phần hóa của nhiều tập đoàn, tổng công ty và doanh nghiệp thuộc các ngành xương sống của nền kinh tế. Điển hình là các thương vụ IPO của Bảo Việt, PVFC, Đạm Phú Mỹ, Vietcombank… Đặc biệt, đợt IPO của Vietcombank cũng tạo được sức ảnh hưởng lớn và thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Ngoài ra, việc Việt Nam gia nhập WTO cũng góp phần đẩy TTCK lên đỉnh.
Trong cơn sóng thần giai đoạn 2006-07, các gia đình “đổ xô” đầu tư chứng khoán, câu chuyện đầu tư chứng khoán len lỏi từ quán trà đá, chợ búa, thậm chí cả bữa cơm gia đình. Kiếm tiền dễ dàng trên thị trường đến nỗi những người không có kiến thức đầu tư cũng tham gia. Cổ phiếu trên sàn chứng khoán với thị giá hàng trăm nghìn đồng là chuyện rất bình thường lúc bấy giờ. Hầu hết các cổ phiếu từng có thị giá cực cao như BMC, FPT, SJS, PVD, TDH, BVS, DHG… đều lập kỷ lục trong giai đoạn này.
Đáng chú ý, ngay trước khi tạo đỉnh, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã có đánh giá về thị trường chứng khoán Việt Nam, dự báo khả năng điều chỉnh lớn. Theo tính toán của IMF tính đến tháng 1/2007, P/E bình quân của 20 công ty lớn nhất (chiếm 99% giá trị vốn hóa thị trường) niêm yết trên HoSE lên tới 73 lần, rất cao so với các thị trường khác.
Mặc dù con số P/E 73 lần vẫn còn gây tranh cãi (số liệu của Bloomberg là 4x), thị trường chứng khoán Việt Nam sau đó đã trải qua một trong những đợt sụt giảm mạnh nhất trong lịch sử. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 và chính sách tiền tệ thắt chặt do áp lực từ lạm phát đã nhấn chìm thị trường.
Thậm chí, biên độ dao động giá của HoSE đã phải hạ từ +/-5% xuống +/-1%, tại HNX hạ từ +/-10% xuống +/-2%. Ngoài ra, Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) cũng tham gia mua cổ phần bình ổn giá. Khuyến khích ngân hàng, công ty chứng khoán ngừng giải chấp cầm cố, kêu gọi doanh nghiệp niêm yết mua cổ phiếu quỹ.
Tuy nhiên, VN-Index vẫn mất gần hết thành quả của đợt sóng thần trước đó chỉ sau 2 năm lập đỉnh. Và phải mất 11 năm sau, chỉ số này mới quay lại đỉnh cũ với đà tăng cũng đến từ những thương vụ IPO “đình đám” giai đoạn 2016-18. Bên cạnh các doanh nghiệp dầu khí nhà nước như Petrolimex (PLX), PV Power (POW), PV Oil (OIL), Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR), khối tư nhân cũng để lại ấn tượng mạnh với “bom tấn” như Vinhomes (VHM), Vincom Retail (VRE), Vietjet Air (VJC), VPBank (VPB),…
Mọi thứ đều thay đổi, chỉ VN-Index vẫn vậy
Sau khi về đỉnh cũ năm 2018, chứng khoán Việt một lần nữa lao dốc mạnh, đỉnh điểm là đáy Covid tháng 3/2020. Từ đó, làn sóng nhà đầu tư mới tham gia chứng khoán “ồ ạt” trong môi trường tiền rẻ nhanh chóng đẩy thị trường lao dốc. đỉnh cao, thậm chí vươn tới những đỉnh cao mới chưa từng thấy trong lịch sử.
Tuy nhiên, những cơn bão liên tiếp ập đến trong năm 2022 đã đưa VN-Index trở lại mốc 1.000 điểm quen thuộc. Dù đi lùi nhưng thị trường sau 16 năm đã có những bước phát triển vượt bậc về mọi mặt. Sự khác biệt đầu tiên được thể hiện qua việc định giá thị trường. P/E của VN-Index hiện chỉ xấp xỉ 12 lần, thấp hơn nhiều so với con số năm 2007.
Giá trị vốn hóa của HoSE cũng tăng gấp 10 lần sau 16 năm, đạt xấp xỉ 4,2 triệu tỷ đồng. Cùng với đó, danh sách doanh nghiệp tỷ đô cũng ngày càng được nối dài với hàng loạt tên tuổi hàng đầu trong nhiều lĩnh vực như ngân hàng, bất động sản, công nghệ, năng lượng,…
Số lượng cổ phiếu niêm yết trên HoSE cũng tăng gấp 5 lần từ hơn 100 cổ phiếu đầu năm 2007 lên gần 550 cổ phiếu bao gồm các sản phẩm mới như chứng chỉ quỹ đóng, chứng chỉ quỹ ETF, chứng quyền có bảo đảm (CW). ,… Thị trường chứng khoán phái sinh cũng đã đi vào hoạt động và phát triển nhanh, ổn định, giúp đa dạng hóa danh mục đầu tư, cung cấp thêm công cụ phòng ngừa rủi ro, cải thiện nền tảng nhà ở. đầu tư, thúc đẩy tính thanh khoản của thị trường.
Ngoài ra, Luật Chứng khoán thời gian qua cũng đã có nhiều thay đổi để phù hợp hơn với sự phát triển của thị trường, giúp nhà đầu tư tiếp cận chứng khoán dễ dàng hơn. Minh chứng rõ ràng nhất là sự bùng nổ của làn sóng nhà đầu tư mới trong suốt năm 2021 kéo dài đến nửa đầu năm nay.
Số lượng tài khoản chứng khoán tăng vọt từ 330.000 tài khoản năm 2007 lên hơn 7 triệu tài khoản (bao gồm cả nhà đầu tư nước ngoài). Nhà đầu tư nước ngoài cũng có mặt ngày càng phổ biến trên TTCK Việt Nam, đặc biệt với sự góp mặt của các “cá mập” như Korea Investment Management (KIM), PYN Elite Fund, Lumen Vietnam Fund hay hàng loạt quỹ ETF như Fubon FTSE ETF, VNM ETF , FTSE Vietnam ETF, v.v.
Thanh khoản cũng bùng nổ với sự xuất hiện của nhiều giao dịch tỷ đô. Dù đã hạ nhiệt trong thời gian gần đây nhưng rõ ràng thanh khoản vẫn cao hơn nhiều so với 16 năm trước. Chứng khoán vẫn được đánh giá là kênh đầu tư hấp dẫn, có tiềm năng tăng trưởng khả quan trong dài hạn nhờ vĩ mô ổn định và tăng trưởng lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết được đánh giá cao. Do đó, dự báo thanh khoản sẽ dần phục hồi và số lượng nhà đầu tư tham gia sẽ tăng lên trong thời gian tới.
Link nguồn: https://cafef.vn/tron-16-nam-tu-lan-dau-vn-index-lap-dinh-lich-su-chung-khoan-viet-nam-thay-doi-ra-sao-20230312001132983.chn