Cụ thể, về việc giải thích từ “người sử dụng đất”. Tại Khoản 28 Điều 3 của dự thảo, từ “tranh chấp đất đai” là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai.
Thống nhất khái niệm “người sử dụng đất”
Theo giải thích về “người sử dụng đất” tại Điều 6 Dự thảo, với “người sử dụng đất” (giao, cho thuê, công nhận, nhận chuyển quyền) thì họ là “người sử dụng đất” nên có các quyền và nghĩa vụ của “người sử dụng đất”. ” (Khoản 24 Điều 3 Luật Đất đai 2013, Khoản 28 Điều 3 Dự thảo), nếu “người sử dụng đất” có tranh chấp thì họ tranh chấp quyền và nghĩa vụ này.
Như vậy, đối với những người “chưa phải là người sử dụng đất” tức là những người không được: chuyển nhượng, cho thuê, công nhận, không có quyền chuyển nhượng thì không có quyền và nghĩa vụ của “người sử dụng đất”. Như vậy, không có lý do gì để tranh chấp và yêu cầu giải quyết những gì họ không có.
Hay với từ “bồi thường đất”, theo Dự thảo, đây là việc Nhà nước hoàn trả bằng đất hoặc giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người sử dụng đất. Như vậy, đối với người dân không phải là “người sử dụng đất” sẽ không nằm trong quy định “Bồi thường đất đai”.
Tại khoản 4 Điều 87 của Dự thảo có quy định người không phải là “người sử dụng đất” vẫn được bồi thường nếu đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận. Điều đó làm cho từ “bồi thường đất” không còn chính xác.
Một bất cập nữa, trường hợp Nhà nước thu hồi đất mà không bồi thường về đất thì không đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định. quy định của Luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 82 của Luật này.”
Theo khoản 15 Điều 3 Dự thảo, giải thích từ ngữ thì “hỗ trợ” áp dụng đối với “người có đất”, tức là bao gồm: (i) “người sử dụng đất” và “người không sử dụng đất”.
Tuy nhiên, với quy định tại khoản 1 Điều 94 Dự thảo, có thể hiểu “nguyên tắc” “hỗ trợ” chỉ dành cho “người sử dụng đất”. Như vậy, Khoản 1 Điều 94 đã phá vỡ nội dung quy định tại Khoản 15 Điều 3 Dự thảo.
Không chỉ vậy, với từ “người sử dụng đất” dù được dùng đến 3 lần cũng không giải thích được nghĩa, nội hàm, không phân biệt được giữa hai từ “người sử dụng đất” và “chủ sở hữu đất”.
Địa phương lúng túng khi triển khai
Đáng chú ý, về các hình thức Nhà nước giao đất, Luật Đất đai 2013 quy định Nhà nước giao quyền sử dụng đất (gọi tắt là Nhà nước giao đất) là việc Nhà nước ra quyết định giao đất để trao quyền sử dụng đất. cho người có nhu cầu sử dụng đất.
Nhưng Dự thảo lại quy định, Nhà nước giao quyền sử dụng đất (gọi tắt là Nhà nước giao đất) là việc Nhà nước ra quyết định giao đất để trao quyền sử dụng đất cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất.
Hay Luật quy định Nhà nước cho thuê quyền sử dụng đất (gọi tắt là Nhà nước cho thuê đất) là việc Nhà nước quyết định trao quyền sử dụng đất cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất thông qua hợp đồng thuê đất. sử dụng đất.
Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất là việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người đang sử dụng đất ổn định, không có nguồn gốc và được Nhà nước giao đất, cho thuê đất thông qua việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. , quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất lần đầu đối với thửa đất có thời hạn.
Nhưng dự thảo lại quy định Nhà nước cho thuê quyền sử dụng đất (gọi tắt là Nhà nước cho thuê đất) là việc Nhà nước quyết định trao quyền sử dụng đất cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất thông qua quyết định giao quyền sử dụng đất. cho thuê quyền sử dụng đất.
Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất là việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người đang sử dụng đất ổn định, không có nguồn gốc và đã được Nhà nước giao đất, cho thuê đất thông qua việc ban hành quyết định công nhận quyền sử dụng đất. quyền. sử dụng đất đối với một thửa đất xác định.
Vấn đề là cách gọi từ tỉnh về địa phương có gì khác so với thuật ngữ “giao đất”.
Việc dùng sai từ ngữ đã dẫn đến Luật Đất đai nhiều lần ban hành mà vẫn tồn tại trong Dự thảo hiện nay, dẫn đến sai nhiều từ ngữ khác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng văn bản. bản luật. Luật Đất đai sửa đổi có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc định hướng phát triển kinh tế, xã hội. Vì vậy, cần chuẩn hóa cách diễn đạt để tránh tạo ra những bất cập không đáng có trong quá trình thực hiện.
Vì vậy, đối với từ “người sử dụng đất” tại Điều 6 của Dự thảo, nên thay thế bằng một từ chính xác hơn để thể hiện đúng nghĩa của từ “người sử dụng đất” hoặc phải xác định lại, điều chỉnh quy định cụ thể hơn bởi “ giấy chứng nhận”.
Link nguồn: https://cafebiz.vn/luat-dat-dai-sua-doi-chuan-hoa-khai-niem-nguoi-su-dung-dat-176221121070138313.chn