Phát triển cảng hàng không để khai thác hết tiềm năng du lịch của địa phương
Chủ trì cuộc thảo luận, Thứ trưởng Bộ GTVT Lê Anh Tuấn cho rằng, để phát triển kinh tế – xã hội, khai thác hết tiềm năng của các địa phương, vùng miền thì phải có hạ tầng giao thông hiện đại, trong đó có hàng không. Hàng không có lợi thế về vận tải hành khách đường dài, độ tin cậy cao, thích hợp để phát triển du lịch.
Bàn về vấn đề này, Mr Nguyễn Thanh Ngọc – Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh đưa ra dẫn chứng: “Tây Ninh cũng như một số tỉnh không phải cứ thấy ai có sân bay thì mình mới đăng ký. Chúng ta phải có tư duy dân tộc chứ không phải tư duy cục bộ. Không phải địa phương khác có cái mà chúng tôi phải có ”.
Theo ông Ngọc, theo quy luật phát triển, các công trình hạ tầng như đường bộ, đường thủy, hàng không phải phát triển mới đáp ứng được nhu cầu. Tuy nhiên, với quy hoạch quốc gia, chúng ta nên nghiên cứu dưới góc độ quy hoạch mở.
“Với Tây Ninh, chúng tôi thấy đủ các yếu tố cần và đủ. Tiềm năng phát triển của Tây Ninh về du lịch là rất lớn. Sân bay Tây Ninh hình thành không chỉ chia sẻ áp lực giao thông hàng không với sân bay Tân Sơn Nhất mà còn giúp Tây Ninh kết nối với các điểm du lịch trong và ngoài nước. Góp phần đảm bảo an ninh, quốc phòng và đối ngoại ”, ông Ngọc nói.
Hiện tại, riêng khu du lịch Núi Bà Đen cuối năm nay sẽ đón 5 triệu lượt khách, hiện là 4,2 triệu lượt. Nếu làm bài bản thành khu du lịch quốc tế vào năm 2030, con số này có thể lên tới 7-9 triệu lượt.
Ông Nguyễn Thành Ngọc, Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh: “Sân bay giúp Tây Ninh kết nối với các điểm du lịch trong và ngoài nước”.
Đồng quan điểm, Mr Đặng Văn Minh – Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi tôi bày tỏ: “Riêng với Quảng Ngãi, chúng tôi giáp Quảng Nam với sân bay Chu Lai. Chu Lai tuy quê ở Quảng Nam nhưng người Quảng Ngãi đi du lịch nhiều nhất (chiếm hơn 80%).
Tuy nhiên, ông Minh cho biết Quảng Ngãi có Lý Sơn. Đây là hòn đảo có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo an toàn, quốc phòng, an ninh. Mới đây, Quảng Ngãi đã nghiên cứu, đề xuất đưa vào quy hoạch và đầu tư xây dựng Cảng hàng không Lý Sơn. Ý tưởng này đã được báo cáo lên lãnh đạo trung ương và đang nhận được sự quan tâm lớn.
“Nếu sân bay Lý Sơn được xây dựng, sân bay này sẽ phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của Quảng Ngãi, đảm bảo quốc phòng – an ninh. Nếu đầu tư không phải từ ngân sách nhà nước mà đầu tư theo hình thức PPP thì Trung ương rất ủng hộ. Thời gian qua, Quảng Ngãi đã tích cực làm việc với các cơ quan liên quan để đưa Cảng hàng không Lý Sơn vào quy hoạch giai đoạn 2021-2030.
“Chúng tôi cảm ơn lãnh đạo Bộ GTVT đã gợi ý” ngoài 28 cảng hàng không, có thể phát triển thêm các sân bay ở đảo Lý Sơn, Phú Quý “. Đây là nền tảng để thực hiện các bước tiếp theo. Tôi cũng mong rằng Bộ GTVT và các bộ, ngành liên quan, đơn vị tư vấn sẽ hỗ trợ chúng tôi triển khai các bước tiếp theo, sớm đưa Lý Sơn vào quy hoạch cảng hàng không quốc gia giai đoạn 2021-2030.
Vốn ngân sách nhà nước dành cho lĩnh vực giao thông vận tải chỉ đáp ứng khoảng 65,8% nhu cầu
Anh ta Lê Anh Tuấn – Thứ trưởng Bộ GTVT – Dẫn số liệu thời gian qua, nhiều địa phương mong muốn, đề xuất Bộ GTVT, Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam (ACV) ưu tiên dành nguồn vốn đầu tư phát triển cảng hàng không để đáp ứng nhu cầu. nhu cầu phát triển kinh tế. Tuy nhiên, vốn ngân sách nhà nước dành cho lĩnh vực giao thông vận tải mới đáp ứng được khoảng 65,8% so với nhu cầu.
Theo đại diện Bộ GTVT, giai đoạn 2021-2030, nhu cầu vốn theo quy hoạch khoảng 403.106 tỷ đồng (trừ các dự án do VATM làm chủ đầu tư). Trong đó, bên cạnh nguồn vốn cân đối từ ACV, Bộ GTVT vẫn cần huy động khoảng 128.115 tỷ đồng để đầu tư kết cấu hạ tầng hàng không.
Trong bối cảnh đó, huy động vốn xã hội để đầu tư hạ tầng cảng hàng không là nhiệm vụ cấp thiết, nhất là trong bối cảnh ngành hàng không Việt Nam đang tăng trưởng nhanh với tốc độ bình quân khoảng 18% trong 10 năm. gần đây.
Nói về nguồn vốn để phát triển hàng không, Mr. Nguyễn Anh Dũng, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Giao thông vận tải Ông cũng cho biết, Luật Hàng không từ năm 2006 đã khuyến khích các thành phần kinh tế, tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư vào cảng hàng không.
Từ năm 2006 đến 2010, tốc độ phát triển của ngành hàng không không cao, cơ sở hạ tầng chủ yếu do nhà nước đầu tư. Xã hội hóa đầu tư không chỉ đầu tư vào cơ sở hạ tầng mà cả giao thông. Từ năm 2010, Vietjet đã thành lập doanh nghiệp tư nhân. Vì vậy, giao thông đi trước, sau đó mới đến cơ sở hạ tầng. Trong giai đoạn đầu, cơ sở hạ tầng nhận được từ quân đội, với một phần đầu tư của nhà nước, vẫn đáp ứng được nhu cầu.
Hiện nay, với tốc độ phát triển rất lớn, cần đầu tư cơ sở hạ tầng lớn. Khi nhà nước và doanh nghiệp nhà nước không kham nổi thì chúng ta phải vận động.
Ông Dũng lấy ví dụ về sân bay Vân Đồn, được vận động từ năm 2012. Khi đó, chúng tôi vừa lên kế hoạch vừa tiếp cận đầu tư, năm 2018 triển khai thành công.
Ngoài ra, trong hàng không không chỉ có cơ sở vật chất hạ tầng mà còn có các công trình dịch vụ tại cảng như nhà hàng, suất ăn … Trước đây là doanh nghiệp nhà nước đầu tư, sau này trở thành công ty con của Vietnam Airlines. , ACV đầu tư. Giai đoạn 2014 – 2015, chúng tôi cổ phần hóa và các đơn vị này trở thành doanh nghiệp tư nhân.
Doanh nghiệp đầu tư vào ngành hàng không đã có kết quả tốt. Tuy nhiên, với hạ tầng thì khó hơn do yêu cầu vốn lớn, thu hồi vốn chậm nên các doanh nghiệp trong giai đoạn đầu rất cần sự hỗ trợ của địa phương.
“Các mô hình khác như cổ phần hóa nhỏ hơn hoặc lớn hơn 50% thì vướng nhiều thứ. Khi chúng ta nghiên cứu các luật đang chồng chéo và để giải quyết những vấn đề đó sẽ khó khăn cho các nhà đầu tư. Vì vậy, chúng ta nên làm theo mô hình hợp tác công tư, nhượng quyền sẽ khuyến khích các nhà đầu tư tập trung đầu tư và sẽ có kết quả cao hơn ”, ông Nguyễn Anh Dũng nhấn mạnh.
Vẫn theo Ông Phạm Ngọc Sáu – Giám đốc Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn, để đầu tư vào một sân bay, để hòa vốn là một thời gian dài. Thời gian dự án 46 năm là thời gian cân bằng để hòa vốn, không thể một vài năm nữa là hòa vốn. Phải xác định việc đầu tư cơ sở hạ tầng của sân bay là lâu dài và theo định hướng phát triển chung. Có rất ít sân bay ở Việt Nam có lãi, ngoài những sân bay lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng. Ngay cả sân bay Phú Quốc dù đã phát triển nhưng vẫn chưa hòa vốn.
Điều quan trọng để sân bay phát triển, có đường bay, có nhiều chuyến bay, nhiều hành khách… thì cần nhiều yếu tố. Không chỉ Việt Nam mà các quốc gia khác khi mở sân bay đều cần sự hỗ trợ của chính quyền địa phương đối với các đường bay mới.
Khi một sân bay phát triển, các ngành công nghiệp khác sẽ theo sau. Tỉnh Quảng Ninh cũng có nhiều chính sách hỗ trợ như miễn phí tham quan Vịnh Hạ Long, miễn phí vé Yên Tử, miễn phí xe buýt tuyến Vân Đồn – Hạ Long … để tạo động lực. Sân bay Cát Bi của Hải Phòng trước đây cũng đã được chủ trương của thành phố hỗ trợ.
Ông Phạm Ngọc Sáu, Giám đốc Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn: “Đầu tư vào cảng hàng không góp phần thúc đẩy các ngành khác phát triển”.
Bàn về mô hình sân bay nào của Việt Nam sẽ ưu việt hơn, ông Lê Đỗ Mười, Viện trưởng Viện Chiến lược và Phát triển GTVT cho rằng, trên thế giới có nhiều mô hình đầu tư hàng không và thực sự mang tính xã hội hóa. Sân bay cũng là mô hình mới trên thế giới. Khi xã hội hóa hàng không Việt Nam, đặc biệt là sân bay Vân Đồn đã được bạn bè trong khu vực đánh giá là bước đột phá của Việt Nam.
“Theo kinh nghiệm của chúng tôi và sàng lọc tổng hợp, trên thế giới hiện đang sử dụng 8 loại mô hình và được chia thành các nhóm. Thông thường, họ làm theo xu hướng: các vị trí sân bay khu vực phù hợp với nhu cầu nào thì sử dụng mô hình đó, không ép buộc mô hình nào.
Qua nhu cầu, tiềm năng của Việt Nam và qua bài học kinh nghiệm của sân bay Vân Đồn, chúng tôi đề xuất Việt Nam nên thực hiện theo mô hình đầu tư PPP hoặc nhượng quyền thương mại. Nhà nước giao cho tư nhân đầu tư khai thác, đầu tư toàn bộ cảng hàng không, còn nhà nước giao quyền quản lý cảng hàng không, giao cho tư nhân quyền khai thác nhà ga, sân đỗ… như sân bay Vân Đồn. sẽ phù hợp ”, ông Mười nói.
Cũng là một trong những tỉnh có nhiều tiềm năng nhưng giao thông hạn chế, ông Trịnh Xuân Trường, Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai cho rằng, việc lựa chọn nhà đầu tư cũng rất khó, nhưng đầu tư theo phương thức PPP là lựa chọn tốt nhất. chọn tốt nhất. Theo ông Trường, hầu hết các tỉnh đề xuất xây dựng cảng hàng không đều có tiềm năng.
Tại hội thảo, đại diện Vụ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ GTVT đã đưa ra nhiều ví dụ, bài học kinh nghiệm quốc tế về xã hội hóa hạ tầng cảng hàng không. Theo thống kê của ICAO năm 2016, ước tính trong số 4.300 sân bay trên thế giới, 14% có sự tham gia của khu vực tư nhân. Riêng khu vực châu Âu, tỷ lệ tư nhân tham gia vào cơ sở hạ tầng sân bay chiếm hơn 31%.
Các nước như Pháp, Đức, Trung Quốc huy động vốn từ khu vực tư nhân dưới hình thức góp vốn vào doanh nghiệp cảng hàng không nhưng Chính phủ vẫn nắm cổ phần chi phối (tối thiểu> 50%). Riêng Anh đã tư nhân hóa hoàn toàn sân bay này. Trong khi đó, nhiều nước như Mỹ, Mexico, Thổ Nhĩ Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ, Philippines … huy động vốn từ khu vực tư nhân theo hình thức nhượng quyền / BOT.
Theo đại diện đơn vị này, hình thức hợp tác công tư – PPP phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Trong đó có thể đầu tư toàn bộ cảng hàng không (áp dụng đối với các cảng hàng không Nhà nước không cần nắm giữ) hoặc đầu tư từng công trình riêng lẻ như nhà ga hành khách, nhà ga hàng hóa … đang nắm giữ).
Link nguồn: https://cafef.vn/can-them-130000-ti-dong-dau-tu-ha-tang-cang-hang-khong-20221105074403049.chn