Áp lực chuyển đổi số
Theo ông Nguyễn Phước Hưng – Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TP. Hồ Chí Minh (HUBA), các doanh nghiệp dệt may của HUBA đang gặp rất nhiều khó khăn, trong đó khó khăn chung nhất là thiếu hụt dòng tiền, doanh nghiệp không tiếp cận được vốn vay, nhiều doanh nghiệp không được giải ngân, chuyển vốn. nợ xấu. Vì vậy, từ giữa năm 2022 đến nay, các doanh nghiệp không đầu tư và có xu hướng bán lại, đánh mất thương hiệu.
Kết quả quý I-2023 của doanh nghiệp dệt may thành phố cho thấy, kim ngạch xuất khẩu giảm trên 8% so với cùng kỳ. HUBA cũng dự báo những tháng tới sẽ là giai đoạn khó khăn đối với các doanh nghiệp ngành dệt may.
Ngành dệt may liên tục gặp khó khăn từ cuối năm 2022, theo các doanh nghiệp đầu ngành, ngoài khó khăn do nhu cầu thị trường giảm còn đến từ nội tại của ngành.
Nói về tồn tại của ngành dệt may, theo Hội Dệt may thêu ren TP. Hồ Chí Minh (Agtek) đó là sự thiếu liên kết trong chuỗi cung ứng. Điều đáng nói, chuỗi cung ứng bền vững không phải là một khái niệm mới trong ngành và không phải đến bây giờ vấn đề này mới được chú trọng.
Cụ thể, tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng, chủ nghĩa bảo hộ gia tăng, xu hướng mua hàng của các nước nhập khẩu hàng may mặc lớn trên thế giới như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản đang thay đổi. Chuỗi cung ứng có khả năng sản xuất nhiều công đoạn, tập trung tại một địa điểm, minh bạch xuyên suốt toàn bộ quá trình sản xuất từ nguyên liệu đầu vào đến thành phẩm. Ngoài ra, các nhà nhập khẩu cũng quan tâm đến việc giảm sử dụng hóa chất và tiết kiệm nguyên liệu thô bằng cách tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo.
Trong số các yêu cầu này, doanh nghiệp Việt Nam còn yếu và thiếu liên kết chuỗi cung ứng. Bởi trên thực tế, phần lớn doanh nghiệp vẫn làm gia công, dẫn đến lợi nhuận thấp, thường bị ép giá…
Trong bối cảnh trên, ông Phạm Văn Việt – Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt thêu đan TP. Hồ Chí Minh, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Việt Thắng Jean khẳng định: Một trong những chìa khóa để thay đổi và tái định vị ngành dệt may Việt Nam không gì khác chính là chuyển đổi số.
“Tại Việt Thắng Jean, từ khi áp dụng chuyển đổi số vào doanh nghiệp, không chỉ nguồn nhân lực được tối ưu hóa mà các khâu vận hành, chất lượng sản phẩm cũng được cải thiện rõ rệt. Bên cạnh đó, việc doanh nghiệp ứng dụng công nghệ nano, ozone trong nhuộm, điều chỉnh màu vải đã góp phần hạn chế tối đa chất thải ra môi trường” – ông Việt nói.
Hướng tới nền kinh tế tuần hoàn
Cùng với chuyển đổi số, hướng tới nền kinh tế tuần hoàn cũng là một trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay đối với doanh nghiệp dệt may. Đánh giá về vấn đề này, ông Phạm Văn Việt cho biết: Nói một cách dễ hiểu, kinh tế tuần hoàn là mô hình kinh tế bao gồm tất cả các hoạt động từ thiết kế, sản xuất đến cung cấp dịch vụ, hướng tới tái sử dụng nguyên vật liệu và loại bỏ các tác động xấu đến môi trường.
“Có 4 lợi ích cơ bản mà kinh tế tuần hoàn mang lại thông qua tận dụng tối đa các nguồn lực, đó là tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường, thúc đẩy phát triển kinh tế và đảm bảo lợi ích xã hội. . Như vậy, khái niệm này phù hợp với nguyên tắc 3R mà thế giới đã nói đến trong nhiều thập kỷ – giảm thiểu – tái sử dụng – tái chế. Hay nói rộng hơn là tận dụng hiệu quả tài nguyên thông qua các hoạt động sản xuất – tiêu dùng – tái tạo” – ông Việt phân tích.

Vải từ sản phẩm thiên nhiên đang lên ngôi trong ngành dệt may
Trên thực tế, mô hình kinh tế tuần hoàn tập trung vào việc quản lý và tái tạo tài nguyên theo chu trình khép kín nhằm giảm thiểu lượng chất thải và chất thải được tái chế, trở thành nguồn nguyên liệu mới cho nền kinh tế. sản xuất, từ đó giảm tác động tiêu cực đến môi trường, bảo vệ hệ sinh thái và sức khỏe con người. Bản chất của mô hình kinh tế tuần hoàn được định hình bởi 3 nguyên tắc: Bảo tồn và nâng cao vốn tự nhiên; tối ưu hóa lợi nhuận tài nguyên; quản lý hiệu quả hệ thống xử lý chất thải. Cụ thể, một phần hoặc toàn bộ chất thải sẽ được quay trở lại chu trình sản xuất cũ, tái cơ cấu và tiếp tục sử dụng, góp phần giảm tiêu hao nguyên vật liệu, thu hồi chất thải làm đầu vào sản xuất, đồng thời giảm chi phí sản xuất, chế tạo.
Đối với ngành dệt may, theo ông Việt, dù có đóng góp lớn cho nền kinh tế nhưng dệt may là một trong những ngành gây ô nhiễm môi trường hàng đầu. Do đó, một số quốc gia trên thế giới đã đặt ra các tiêu chuẩn bền vững cho hàng dệt may nhập khẩu vào nước họ. Điều này đòi hỏi ngành dệt may Việt Nam phải thay đổi, phải “xanh hóa” để phát triển bền vững. Từ thực tế đó, phát triển bền vững theo hướng kinh doanh tuần hoàn là xu hướng tất yếu của ngành dệt may Việt Nam. Trong xu thế này, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đang phải tạo ra mẫu mã phù hợp, tăng thời gian sử dụng; hoặc tái sử dụng quần áo và sửa chữa chúng cho các mục đích khác; Cuối cùng là thu gom và tái chế.
Theo tìm hiểu của phóng viên, hiện nay việc “xanh hóa” trong sản xuất dệt may đã được nhiều doanh nghiệp triển khai và bước đầu thành công. Chẳng hạn, Faslink đã đầu tư nhiều nhà máy với tổng diện tích 10.000 m2, trang bị hơn 300 thiết bị hiện đại và bộ dập cải tiến, cũng như hợp tác R&D để làm ra 5 loại vải “xanh” từ thiên nhiên như: sợi cà phê, sợi sen, sợi vỏ sò, sợi dừa, sợi bạc hà.
“Hành trình tạo ra những sợi vải xanh từ bã cà phê, lá và thân sen, vỏ sò, than gáo dừa, cellulose bạc hà… của chúng tôi không chỉ bắt nguồn từ ý tưởng, xu hướng kinh doanh mà còn gắn liền với đam mê, khát khao phát huy mạnh mẽ giá trị của nguyên liệu. được coi là bình thường, ít có giá trị trong tự nhiên. Vải xanh đã tạo ra những bước tiến mới, thúc đẩy sự phát triển sáng tạo trong ngành dệt may và thời trang”, bà Trần Hoàng Phú Xuân – Tổng giám đốc Fastlink cho biết.
Về phía CTCP Dệt may Đầu tư Thương mại Thành Công (TCM), ông Trần Như Tùng – Chủ tịch HĐQT doanh nghiệp này chia sẻ, nhiều năm trước TCM đã tạo ra chuỗi cung ứng khép kín – thu nhỏ bên trong công ty. Trong kinh doanh, để các nhân tài có điều kiện thử nghiệm từ A đến Z, từ tạo ra vải cho đến thành phẩm cuối cùng là quần áo.
Nhờ đó, Thành Công đã sản xuất và phân phối các sản phẩm từ sợi tái chế, hay vải từ chai lọ, ngô hay nguyên liệu tự nhiên và được các thương hiệu thời trang đến từ Nhật Bản, Adidas hay North Face… ưa chuộng.
Theo dự báo của Hiệp hội Dệt may Việt Nam, khó khăn trong xuất khẩu dệt may sẽ còn kéo dài đến hết quý II/2023. Do đó, chuyển đổi số, xanh hóa chuỗi cung ứng, xanh hóa sản xuất sẽ là một bước chuẩn bị cho hành trình bứt phá của ngành dệt may thời gian tới.
Link nguồn: https://cafef.vn/ap-luc-chuyen-doi-so-va-phat-trien-kinh-te-tuan-hoan-trong-nganh-det-may-188230408130622054.chn