Trong những năm gần đây, chứng khoán Mỹ có lẽ là chủ đề được nhà đầu tư so sánh nhiều nhất với thị trường trong nước. DowJones, S&P 500, Nasdaq tiếp tục vượt hết đỉnh này đến đỉnh khác khiến các “nhân chứng” ở Việt Nam không khỏi “đau lòng” khi nhìn lại VN-Index. Dù mọi so sánh đều khập khiễng nhưng không thể phủ nhận có những khác biệt khiến chứng khoán Việt Nam không thể “đi theo xu hướng” của thị trường bên kia bán cầu.
Một trong những nguyên nhân chính là sự mất cân đối về cơ cấu của chứng khoán Việt Nam. Theo số liệu từ Bloomberg, nhóm cổ phiếu tài chính, bất động sản (theo hệ thống phân loại ngành GICS) trên thị trường chứng khoán Việt Nam chiếm tổng tỷ trọng hơn 57% vốn hóa. Con số này cao hơn rất nhiều so với các thị trường trong khu vực như Thái Lan, Indonesia, Trung Quốc… So với các thị trường dẫn đầu thế giới, tỷ trọng này của Việt Nam thậm chí còn vượt trội hơn.
Tài chính và bất động sản là những ngành có tính chu kỳ cao, phụ thuộc nhiều vào tăng trưởng tín dụng. Nhà đầu tư thường chỉ chấp nhận mức định giá P/E khá thấp đối với các cổ phiếu thuộc nhóm này. Với tỷ trọng lớn, đây là một trong những nguyên nhân chính khiến định giá VN-Index duy trì ở mức thấp trong nhiều năm qua nhưng chưa thực sự hấp dẫn dòng tiền.
Bởi lẽ, những nhóm ngành thu hút được sự quan tâm lớn của nhà đầu tư nước ngoài và thường được nhà đầu tư chấp nhận ở mức định giá cao như công nghệ, y tế, dược phẩm, bán lẻ, tiện ích,… chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ. với số lượng cổ phiếu khiêm tốn. Điều này trở thành rào cản khiến thị trường chứng khoán Việt Nam khó thu hút dòng vốn ngoại và thiếu động lực cho một xu hướng tăng dài hạn thực sự.
Trên thực tế, quy mô giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam đã tăng lên đáng kể trong những năm gần đây, nhưng thanh khoản vẫn chủ yếu tập trung ở các cổ phiếu ngân hàng, chứng khoán, bất động sản quen thuộc. Bằng chứng là hầu hết các cổ phiếu trong nhóm này đều có khối lượng giao dịch hàng ngày lớn và nằm trong top đầu các sàn chứng khoán.
Dòng tiền chủ yếu mang tính ngắn hạn khiến VN-Index khó tăng trưởng bền vững, vốn hóa thị trường chưa thể bứt phá rõ rệt. Theo số liệu từ Bloomberg, tỷ lệ giá trị giao dịch/vốn hóa trung bình các phiên trên HoSE trong 6 tháng qua xấp xỉ 0,3%. Con số này cao hơn rất nhiều so với hầu hết các thị trường phát triển như Mỹ, Anh, Đức,… với đầy đủ các sản phẩm, giao dịch T0 đã được áp dụng từ lâu. Điều này phần nào cho thấy mức độ đầu cơ rất cao trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Sự mất cân đối kéo dài nhiều năm một phần là do tình trạng thoái vốn, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ảm đạm. Bên cạnh đó, số lượng doanh nghiệp tư nhân có khả năng tạo ảnh hưởng lớn sẵn sàng niêm yết trên sàn chứng khoán cũng không nhiều. Sau giai đoạn bùng nổ hoạt động niêm yết mới vào các năm 2007-08 và 2016-18, thị trường chứng khoán Việt Nam đã nhiều năm không có “bom tấn” thực sự.
Thiếu hàng hóa mới, đa dạng hóa sản phẩm đầu tư trở nên khó khăn. Danh mục đầu tư của các quỹ đầu tư lớn đang hoạt động đều là những gương mặt quen thuộc. Bộ chỉ số tham chiếu cho các quỹ ETF cũng “tương đồng” với nhau với cơ cấu chủ yếu bao gồm cổ phiếu ngân hàng, chứng khoán và bất động sản. Nhà đầu tư gần như không có lựa chọn nào khác; Các mô hình quản lý tài sản gặp nhiều thách thức trong quá trình phát triển dù được đánh giá có tiềm năng lớn.
GICS (Tiêu chuẩn phân loại ngành toàn cầu) là một trong hai hệ thống phân loại ngành được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới. GICS được Morgan Stanley Capital và S&P phát triển và ứng dụng từ năm 1999 với 10 nhóm ngành lớn, 24 nhóm ngành, 68 ngành và 154 phân ngành nhỏ (phiên bản 2010). Hiện nay, GICS là sự lựa chọn của hơn 200 tổ chức trên toàn thế giới, trong đó có các thương hiệu lớn như Bloomberg, Thomson Reuters, Morning Star… và được sử dụng để phân loại các ngành ở hơn 90 quốc gia trên diện rộng. Cơ sở dữ liệu có hơn 40.000 công ty và hơn 45.000 mã chứng khoán.
Link nguồn: https://cafef.vn/ty-trong-co-phieu-tai-chinh-va-bat-dong-san-tren-san-chung-khoan-viet-nam-vuot-troi-cac-thi-truong-hang-dau-the-gioi-188231213234024044.chn