Kết quả lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết duy trì tăng trưởng trong quý 1/2024, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng đã chậm lại, thống kê từ SSI Research.
TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG CHẬM
Tổng lợi nhuận sau thuế toàn sàn của 1.059 doanh nghiệp tính đến ngày 6/5 tăng 6,6% so với cùng kỳ và tăng 3,4% so với quý gần nhất, ghi nhận lợi nhuận cao nhất trong vòng 7 quý, chỉ thấp trong hai quý đầu năm 2022.
Tốc độ tăng trưởng Q1/2024 đã chậm lại đáng kể so với mức tăng 35,3% trong Q4/2023 do cơ sở so sánh ngày càng cao hơn. Sau giai đoạn biến động mạnh kể từ dịch Covid-19, lợi nhuận đang bước vào thời kỳ phục hồi và tăng trưởng ổn định hơn.
Chu kỳ lợi nhuận của các nhóm ngành có sự phân hóa rõ rệt: Nhóm cổ phiếu bắt đầu hồi phục từ đáy: Bán lẻ (+367%) và Du lịch & giải trí (+1.031%). Nhóm cổ phiếu duy trì quán tính phục hồi tích cực: Dịch vụ tài chính (+103%), Tài nguyên (+208%), Viễn thông (+95%), Xây dựng (+125%).
Nhóm cổ phiếu chưa quay trở lại quỹ đạo tăng trưởng: Bất động sản (-61,6%) và Điện, nước, xăng dầu khí (-49,6%) Nhóm cổ phiếu tăng trưởng ổn định: Ngân hàng (+9,6%), Công nghệ thông tin (+22,1% ).
Ngành ngân hàng duy trì tăng trưởng nhưng tốc độ tăng trưởng chậm hơn: Lợi nhuận sau thuế quý 1/2024 của các ngân hàng niêm yết tăng nhẹ 9,6% so với cùng kỳ, chiếm 49,2% tổng lợi nhuận toàn sàn. NIM tiếp tục chịu áp lực (-8bps so với quý trước) do tăng trưởng tín dụng yếu (+2% so với đầu năm, hoặc 15% so với cùng kỳ) trong khi chất lượng tài sản tiếp tục suy giảm sau cải thiện vào quý 4 năm 2023 do yếu tố mùa vụ.
Cụ thể, tỷ lệ nợ nhóm 2 và nợ xấu trên tổng dư nợ lần lượt là 2,23% (+24 điểm cơ bản so với quý trước) và 1,94% (+23 điểm cơ bản so với quý trước), gần bằng mức đỉnh trong quý III. . /2023 là 1,98%). Thu nhập từ kinh doanh ngoại hối phần nào bù đắp sự sụt giảm mạnh từ hoạt động phân phối bảo hiểm và thu hồi nợ xấu. Ngoài ra, việc kiểm soát tốt chi phí hoạt động trong quý I/2024 với CIR (tỷ lệ chi phí/thu nhập) là 30,7% (so với 31% quý I/2023 và 36% quý IV/2023) là một yếu tố khác. hỗ trợ kết quả kinh doanh của ngân hàng.
Ngành Bất động sản giảm mạnh do ghi nhận doanh thu của VHM giảm: Lợi nhuận sau thuế ngành Bất động sản giảm mạnh -61,6%, ghi nhận lợi nhuận quý thấp nhất trong 5 năm. Nguyên nhân lợi nhuận giảm mạnh là do doanh thu ghi nhận giảm -44,9%, tỷ suất lợi nhuận gộp giảm mạnh từ 21,9% xuống 16,2% bên cạnh chi phí bán hàng và chi phí quản lý tăng.
Việc VHM giảm doanh thu ghi nhận quý này (doanh thu -72%, lợi nhuận sau thuế -92,4%) là nguyên nhân chính ảnh hưởng đến lợi nhuận toàn ngành. Loại trừ VHM, tổng lợi nhuận sau thuế toàn ngành tăng 9,5% so với cùng kỳ nhưng doanh thu vẫn giảm -21,6%.
NHIỀU NHÓM TẠO ĐÁY TRỞ LẠI TĂNG TRƯỞNG
Các nhóm ngành xác nhận chạm đáy và quay trở lại quỹ đạo tăng trưởng: Ngành Bán lẻ tăng mạnh +367% cùng kỳ nhờ tăng trưởng ấn tượng của 2 doanh nghiệp đầu ngành: MWG tăng mạnh 41 lần cùng kỳ và Lấy lại lợi nhuận cao nhất 6 quý , FRT (+28x) đã có lãi trở lại sau 3 quý thua lỗ liên tiếp. Biên lợi nhuận gộp của ngành cải thiện đáng kể từ 15,4% lên 17,5%. Chi phí lãi vay cũng giảm từ 6,6% dư nợ xuống còn 3,9% dư nợ.
Ngành Du lịch & Giải trí hồi phục mạnh mẽ và có lãi trở lại sau thời gian dài ghi nhận thua lỗ. HVN ghi nhận doanh thu thuần quý cao kỷ lục (+19%) nhờ sự phục hồi cả thị phần và giá vé, bên cạnh khoản thu nhập bất ngờ từ việc xóa nợ của công ty con Pacific Airlines. VJC (+212%), ACV (78%), SCS (+30%), AST (+46%) đều ghi nhận mức tăng trưởng lợi nhuận dương.
Nhiều nhóm ngành duy trì tăng trưởng lợi nhuận dương: Ngành Dịch vụ Tài chính tiếp tục tăng trưởng mạnh +103%, đưa lợi nhuận sau thuế lên mức cao nhất kể từ Q2/2022. Hiệu quả hoạt động cải thiện đáng kể trong bối cảnh doanh thu ổn định so với quý trước nhưng lợi nhuận sau thuế tăng 36,1% nhờ biên lợi nhuận gộp tăng từ 52,6% lên 60,9%.
Ngành Tài nguyên cơ bản ghi nhận lợi nhuận sau thuế tăng 208% dù doanh thu chỉ tăng 5,8%. Dẫn đầu tăng trưởng là nhóm Thép (HPG +648%, NKG +405%, SMC +759%) và nhóm Gỗ (ACG +124%, PTB +44%), ngược lại MSR tiếp tục lỗ 702 tỷ đồng trong một nửa.
Ngành Viễn thông tăng trưởng 95%, đóng góp chủ yếu nhờ VGI tăng mạnh 175% nhờ tăng trưởng tích cực ở thị trường nước ngoài.
Ngành Xây dựng ghi nhận lợi nhuận sau thuế tăng 125% nhờ sự cải thiện của nhiều doanh nghiệp tăng 4% như HBC, VCG, CII, LCG, VGC, CTD. Doanh thu tăng 26% trong khi chi phí quản lý và chi phí lãi vay giảm, giúp lợi nhuận ngành cải thiện.
TÌNH HÌNH VAY CÓ XU HƯỚNG TÍCH CỰC HƠN
Biên lợi nhuận gộp nhóm ngành Phi tài chính cải thiện tích cực lên 14,9% từ mức 13,8% trong Q4/2023 và 14,4% trong Q1/2023. Biên lợi nhuận ròng trung bình cũng tăng mạnh lên 5,9%, mức cao nhất trong 7 quý. Các ngành ghi nhận mức cải thiện tốt nhất là Du lịch và Giải trí, Viễn thông, Thực phẩm và Đồ uống, Bán lẻ, Ô tô và Phụ tùng.
Tỷ lệ chi phí lãi vay/tổng nợ (nhóm phi tài chính) giảm mạnh xuống 5,8% từ mức đỉnh 7,8% trong quý 2/2023. Tổng chi phí lãi vay theo đó giảm từ 19,7 nghìn tỷ đồng trong quý 2/2023 xuống còn 15,2 nghìn tỷ đồng trong quý 1/2024 mặc dù tỷ lệ Nợ/Vốn chủ sở hữu tăng nhẹ. Lãi suất giảm đang dần cho thấy tác động tích cực, giúp giảm áp lực lãi vay cho doanh nghiệp.
Tỷ lệ bao phủ lãi vay tăng tích cực, bình quân 4,74 lần trong Q1/2024, so với 3,21 lần trong Q4/2022. Hệ số Nợ/Vốn chủ sở hữu ổn định so với quý trước ở mức 0,62 lần, đồng thời lợi nhuận tăng dần giúp cải thiện sức khỏe tài chính của doanh nghiệp. ROE của nhóm Phi tài chính theo đó cải thiện từ 8,2% trong Q1/2023 lên 10,6% trong Q1/2024.
Nhìn chung, mặc dù một số ngành như Bất động sản, Điện, Nước, Dầu khí, Gas vẫn đang trong chu kỳ suy thoái nhưng hầu hết các ngành khác đang dần hồi phục với sức khỏe tài chính dần được cải thiện. Kết quả lợi nhuận của doanh nghiệp có thể đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất để bước vào giai đoạn tăng trưởng ổn định hơn.
Link nguồn: https://vneconomy.vn/toan-canh-loi-nhuan-quy-1-2024-giai-doan-kho-khan-nhat-da-qua.htm