Ông Nguyễn Quốc Toản, Giám đốc Trung tâm Chuyển đổi số và Thống kê nông nghiệp, Bộ NN-PTNT nhấn mạnh, truy xuất nguồn gốc là một trong 8 vấn đề then chốt trong chuyển đổi số nông nghiệp. Để số hóa trong truy xuất nguồn gốc nông sản thực sự đi vào thực tế, đạt hiệu quả cao, rất cần sự tham gia, phối hợp của các bên, từ cơ quan quản lý nhà nước đến doanh nghiệp, hợp tác xã, hợp tác xã. nông dân.
Quản lý nhà nước trong vấn đề truy xuất nguồn gốc nông sản là để phục vụ, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, nâng cao tính minh bạch, giải thích cho ngành hàng, quyền lợi của nông dân… Với những giá trị đó, hệ thống truy xuất nguồn gốc không chỉ là con dấu, nó là trách nhiệm của nhà sản xuất, niềm tin của người tiêu dùng và rộng hơn là trách nhiệm giải trình của ngành nông nghiệp.
Theo ông Nguyễn Quốc Toản, Việt Nam hiện có 19.000 hợp tác xã nông nghiệp, 14.200 doanh nghiệp nông nghiệp, 7.500 cơ sở chế biến nông sản, 9.400 siêu thị và chợ loại 1. nông nghiệp. Do đó, việc truy xuất nguồn gốc phải mang tính toàn cầu và rất cụ thể.
Ngoài ra, nông nghiệp có quá nhiều thành phần, chỉ tính riêng khâu sản xuất. Ngành nông nghiệp quyết tâm xây dựng kiến trúc và công nghệ có lộ trình. Ứng dụng sẽ ưu tiên cho các sản phẩm xuất khẩu chính ngạch, song song với việc quan tâm đến thị trường nội địa.
Ông Huỳnh Tấn Đạt, Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật chia sẻ, nguyên tắc để quản lý truy xuất nguồn gốc là chúng ta kiểm soát được toàn bộ thông tin từ trang trại, vườn trồng đến sơ chế, đóng gói, chế biến, bảo quản, vận chuyển, phân phối và tiêu thụ. Vườn trồng hoặc cơ sở đóng gói muốn đăng ký mã số trước tiên phải đảm bảo tuân thủ các yêu cầu của nước nhập khẩu.
Hiện Cục Bảo vệ thực vật đang xây dựng phần mềm quản lý cơ sở đóng gói. Các nhà đóng gói có thể liên hệ với Cục BVTV để được cấp tài khoản dùng thử.
Ngoài ra, Cục Bảo vệ thực vật đã xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói xuất khẩu. Hệ thống được sử dụng bởi các cơ quan quản lý (Cục BVTV và các cơ quan đầu mối tại các địa phương) và kết nối dữ liệu với “Nhật ký đồng ruộng” và trong tương lai là phần mềm về “tổ chức quản lý”. bộ phận đóng gói”.
Chia sẻ về Hệ thống truy xuất nguồn gốc của Bộ NN&PTNT, ông Nguyễn Hoài Nam, đại diện Trung tâm Chuyển đổi số và Thống kê nông nghiệp cho biết, hệ thống hiện đang kết nối, chia sẻ dữ liệu. với 8 hệ thống truy xuất nguồn gốc của 8 tỉnh, thành phố và hơn 3.964 doanh nghiệp được cấp mã truy xuất nguồn gốc cho 16.987 sản phẩm nông sản, thực phẩm.
Để Hệ thống truy xuất nguồn gốc tại Bộ hoạt động hiệu quả, ông Nam cho rằng, cần kết nối và dẫn dắt Cổng truy xuất nguồn gốc quốc gia. Vì vậy, việc truy xuất nguồn gốc nông sản nói riêng và các sản phẩm khác nói chung cần được xây dựng và phát triển theo hướng kết nối, liên thông và tập trung.
Ông Mai Quang Vinh, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Kinh tế số Việt Nam chia sẻ, hiện nay mỗi sản phẩm rất dễ tạo mã QR. Việc số hóa và quản lý thông tin nông sản, thực phẩm dưới dạng này sẽ rất lỏng lẻo. Doanh nghiệp rất dễ mua phải hàng trà trộn, hàng kém chất lượng.
Trên cơ sở đó, ông Vinh mong muốn trong thời gian tới sẽ phối hợp chặt chẽ với Nhóm điều hành Diễn đàn kết nối nông sản 970 để xây dựng cổng thông tin quản lý, theo dõi thông tin sản phẩm. Qua đó có thể đưa thông tin của hàng nghìn HTX, ngành hàng, giá bán, giá thu mua nông sản… để mọi đối tượng có nhu cầu dễ dàng tiếp cận, tiến hành tất cả các khâu từ sản xuất đến sản xuất. Tiêu dùng sẽ được minh bạch thông tin.
Cùng quan điểm cần xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung để xác định các tác nhân như: sản xuất, gia công, vận chuyển, phân phối…, ông Nguyễn Thế Tiệp – Phó Viện trưởng Viện Công nghệ chống làm giả cho rằng, hiện nay , các nhà cung cấp dịch vụ hầu hết đều đóng, làm sao kết nối và chia sẻ dữ liệu giữa hàng trăm, hàng nghìn nhà cung cấp giải pháp thành một hệ sinh thái.
Link nguồn: https://cafef.vn/so-hoa-trong-truy-xuat-nguon-goc-nong-san-thuc-pham-20230228155346737.chn