Nghị định số 88/2024/NĐ-CP quy định về bồi thường bằng đất có mục đích sử dụng khác với loại đất bị thu hồi, bằng nhà ở khi Nhà nước thu hồi đất (quy định tại Khoản 1 Điều 96; Khoản 1 Điều 98; Khoản 1 Điều 99 Luật Đất đai).
Cụ thể, theo quy định về giá đất để tính tiền sử dụng đất khi bồi thường bằng đất khác mục đích sử dụng với loại đất đã thu hồi đối với hộ gia đình, cá nhân, người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài đang sử dụng đất ở hoặc sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt Nam thì giá đất được xác định theo bảng giá đất tại thời điểm phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Trường hợp bồi thường bằng hình thức thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời hạn thuê thì giá đất để tính tiền thuê đất là giá đất cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định tại thời điểm phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Giá đất để tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất khi bồi thường bằng đất có mục đích khác với loại đất đã thu hồi đối với tổ chức kinh tế có đất ở thu hồi là giá đất cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định tại thời điểm phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Người có đất thu hồi được bồi thường bằng đất có mục đích sử dụng khác với loại đất thu hồi hoặc bằng nhà ở có chênh lệch về giá trị giữa tiền bồi thường, hỗ trợ về đất với tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp khi được giao đất, tiền thuê đất khác hoặc tiền mua nhà ở thì xử lý như sau:
Trường hợp tiền bồi thường, hỗ trợ về đất lớn hơn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp khi giao đất, cho thuê đất vào mục đích khác với loại đất bị thu hồi hoặc giá mua nhà thì người có đất bị thu hồi được hưởng phần chênh lệch;
Trường hợp tiền bồi thường, hỗ trợ về đất thấp hơn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp khi giao đất, cho thuê đất không đúng mục đích với loại đất thu hồi hoặc giá mua nhà thì người có đất thu hồi phải nộp phần chênh lệch.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào quỹ đất, quỹ nhà ở và tình hình thực tế tại địa phương, quy định tỷ lệ chuyển đổi và điều kiện bồi thường về đất khác mục đích sử dụng với loại đất thu hồi hoặc về nhà ở để bồi thường cho người có đất thu hồi theo quy định.
Ngoài ra, Nghị định số 88/2024/NĐ-CP còn quy định về bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất trong trường hợp diện tích đất thực tế đo đạc khác với diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất.
Theo quy định, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất mà diện tích thực tế đo đạc khác với diện tích ghi trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đã được cấp (sau đây gọi là Giấy chứng nhận) hoặc các giấy tờ quy định tại Điều 137 của Luật Đất đai thì được bồi thường về đất như sau:
Trường hợp diện tích thực tế đo đạc nhỏ hơn diện tích ghi trên Giấy chứng nhận hoặc giấy tờ quy định tại Điều 137 Luật Đất đai thì bồi thường về đất được tính theo diện tích thực tế đo đạc theo quy định tại Khoản 6 Điều 135 Luật Đất đai.
Trường hợp đã hoàn thành việc đo đạc thực tế để thu hồi đất nhưng sau đó do thiên tai, sạt lở, sụt lún mà diện tích thửa đất đã đo đạc thay đổi tại thời điểm lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì sử dụng số liệu đo đạc để lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Trường hợp diện tích đất có chênh lệch mà số liệu đo đạc thực tế lớn hơn số liệu ghi trên Giấy chứng nhận hoặc giấy tờ quy định tại Điều 137 của Luật Đất đai và không có tranh chấp với người sử dụng đất liền kề thì diện tích bồi thường được xác định theo số liệu đo đạc thực tế theo quy định tại Khoản 6 Điều 135 của Luật Đất đai.
Trường hợp Giấy chứng nhận hoặc giấy tờ quy định tại Điều 137 Luật Đất đai có vị trí, tọa độ không đúng thì được xem xét bồi thường theo vị trí, tọa độ đúng khi đo đạc thực tế.
Link nguồn: https://vneconomy.vn/quy-dinh-ve-boi-thuong-ho-tro-tai-dinh-cu-khi-nha-nuoc-thu-hoi-dat.htm