“Thông qua hội thảo “Thúc đẩy và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính phục vụ phát triển kinh tế quốc dân trong bối cảnh mới”, tôi thấy có một số vấn đề lớn.
Thứ nhất, cần thống nhất tư duy tiếp cận toàn diện, định hướng mới về quản lý, khai thác và thúc đẩy hiệu quả nguồn lực tài chính. Cần chú ý đến việc giải phóng nguồn lực tài chính gắn liền với việc sử dụng chúng. Việc sử dụng phải đồng bộ vì đây không chỉ là câu chuyện của ngành tài chính mà phải đổi mới các ngành, lĩnh vực, xác định trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải.
Thứ hai, về công cụ kinh tế, các chuyên gia chỉ ra rằng trong nhiều trường hợp, chúng ta có cách tiếp cận đa mục tiêu, phân tán, rời rạc, làm suy yếu cách thức khai thác, phân bổ nguồn lực… Do đó, chúng ta cần có sự đánh đổi, linh hoạt trong chính sách và mạnh dạn thí điểm ở một số lĩnh vực.
Đặc biệt, cần đa dạng hóa nguồn lực, tập trung vào nguồn lực tư nhân. Hiện nay, Nghị quyết số 39/NQ-TW về nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, huy động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực kinh tế… chưa chú trọng đến tiêu chí của khu vực tư nhân nên cần thay đổi cách tiếp cận cho phù hợp.
Ngoài ra, cần có góc nhìn về các thể chế mới, cách tiếp cận mô hình quỹ, sắp xếp tài sản công, kinh tế hóa nguồn lực, khai thác nguồn lực tài chính gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, thúc đẩy chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, xây dựng thị trường tín chỉ carbon…
“Để tạo đột phá về thể chế, chúng ta cần thay đổi góc nhìn và nhận thức. Để thay đổi góc nhìn và nhận thức, chúng ta cần đề xuất các giải pháp cụ thể trong quản lý và sử dụng nguồn lực để thúc đẩy phát triển kinh tế.
Gần đây, có một số chỉ thị chính sách không tuân thủ theo quy luật của kinh tế thị trường. Có lúc, Ngân hàng Nhà nước lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan vì phải vừa hạ lãi suất, vừa giữ tỷ giá, vừa huy động vốn…
Do đó, chúng ta cần phải có những “đánh đổi” để tránh tình trạng chính sách được triển khai “nửa vời”, tránh tình trạng chính sách tốt nhưng thực hiện không tốt. Đồng thời, cần phải nhất quán trong đánh giá xây dựng mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội trên cơ sở tiềm năng, sức cạnh tranh và quy luật của kinh tế thị trường. Bên cạnh đó, cần nâng cao hiệu lực, hiệu quả và thực hiện nghiêm kỷ luật tài chính trong thực hiện ngân sách.
Bên cạnh đó, cần xây dựng một trung tâm tài chính quốc tế, giúp thị trường tài chính Việt Nam phát triển lành mạnh, hiệu quả, theo kịp thị trường quốc tế, thu hút nguồn tài chính nước ngoài, tận dụng cơ hội dịch chuyển vốn quốc tế vào Việt Nam; qua đó cải thiện, nâng cấp thị trường chứng khoán trong nước.
Về huy động nguồn vốn tư nhân, tôi cho rằng hiện nay vẫn còn vướng mắc về cơ chế, chính sách. Nhất là cơ chế hành chính, để xin dự án, doanh nghiệp phải tốn kém rất nhiều. Do đó, để thu hút được nguồn vốn tư nhân, cần cải cách bộ máy hành chính, tránh tham nhũng và nắm bắt, đóng góp ý kiến, tư vấn cho doanh nghiệp.
“Chúng ta không nên quá nhiệt tình với thị trường tín chỉ carbon, vì đây là một trò chơi lớn. Để có thị trường, phải có hàng hóa và cơ chế giao dịch. Hàng hóa là sự xác nhận hấp thụ carbon. Vậy ai xác nhận, làm thế nào để được xác nhận? Hiện tại, chúng ta bán tín chỉ carbon dưới hình thức hoạt động tài trợ dưới hình thức nhà tài trợ cung cấp tín chỉ carbon và sau đó mua lại các tín chỉ đó.
Chúng ta phải có thị trường tín chỉ carbon, vì hiện nay chúng ta đang phụ thuộc vào cơ chế của các tổ chức quốc tế để đo lượng phát thải và loại bỏ; ngoài ra, chúng ta phải tuân thủ một loạt các tiêu chí khác nhau và việc áp dụng các tiêu chuẩn này cũng rất khó khăn.
Ở Việt Nam, chỉ có thị trường tín chỉ các-bon tự nguyện, chưa có nguồn cung chủ động, chưa có dự án dưới hình thức tài trợ. Do đó, cần xây dựng năng lực đo lường, kiểm soát phát thải và hấp thụ; mặt khác, phải liên kết với các tổ chức để có thể đưa ra các tiêu chuẩn tín chỉ các-bon. Đây là chặng đường rất dài, bao gồm cả khả năng đưa ra các tiêu chuẩn, tiêu chí được quốc tế công nhận, xây dựng thị trường trong nước…”.
“Hiện nay, ngành dệt may có khoảng 7.000 doanh nghiệp, trong đó 80% là doanh nghiệp vừa và nhỏ, 19% là doanh nghiệp FDI, chủ yếu xuất khẩu sang các thị trường lớn như Hoa Kỳ, Châu Âu, Nhật Bản. Toàn ngành sử dụng khoảng 3 triệu lao động, trong đó 75% là lao động nữ.
Về kim ngạch xuất khẩu, doanh nghiệp dệt may luôn đứng đầu về sản lượng xuất khẩu trong nước và nằm trong top 3 thế giới về dệt may, sau Trung Quốc và Bangladesh. Với dấu hiệu phục hồi, ngành dệt may đặt mục tiêu xuất khẩu 44 tỷ USD vào năm 2024.
Tuy nhiên, thách thức lớn nhất của ngành là câu chuyện phát triển bền vững, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi xanh, vì đây là ngành có lợi nhuận mỏng và đầu tư lớn. Ví dụ, thị trường châu Âu có tới 11 yêu cầu, như: chỉ thị khung về chất thải, chỉ thị báo cáo bền vững, thiết kế sinh thái cho phát triển bền vững…
Câu hỏi đặt ra là: Doanh nghiệp có đáp ứng được yêu cầu không? Nếu không đáp ứng được yêu cầu thì sẽ không có đơn hàng. Ví dụ, trong một năm, Tổng công ty May 10 đã có 100 lượt đánh giá của khách hàng và các tổ chức chứng nhận.
Ngoài ra, công ty đang phải đầu tư chứng chỉ công trình xanh, chuyển đổi năng lượng xanh từ đốt than, dầu sang đốt điện bằng viên sinh khối… Ngoài ra, đến nay công ty vẫn chưa thể vay được vốn ngân hàng từ tín dụng xanh.
Do đó, tôi kiến nghị cần có nhiều công cụ tuyên truyền hơn về vấn đề này để doanh nghiệp hiểu rõ hơn; đồng thời, cần thành lập quỹ chuyển đổi xanh. Mặt khác, cần phải định nghĩa rõ ràng sản xuất xanh là gì để tránh mất cân bằng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Bởi vì ngành dệt may có sợi, may và nhuộm, và mỗi khi nghe nói nhuộm liên quan đến môi trường, một số tỉnh, thành phố đều e ngại.
“Mặc dù Việt Nam là một trong những nước ASEAN đầu tiên phát hành trái phiếu xanh vào năm 2016, nhưng đến năm 2022, tổng giá trị phát hành chỉ đạt khoảng 1,8 tỷ USD. Con số này khá khiêm tốn so với các nước khác trong khu vực như Philippines (11,9 tỷ USD) và Indonesia (16,6 tỷ USD). Điều này cho thấy thị trường trái phiếu xanh của Việt Nam vẫn còn nhiều dư địa tăng trưởng.
Thông qua hợp tác với các chuyên gia từ Diễn đàn Kinh tế Thế giới, chúng tôi đã xác định bốn thách thức chính mà thị trường trái phiếu xanh tại Việt Nam đang phải đối mặt. Đó là: (i) thiếu các quy định cụ thể về trái phiếu xanh, đặc biệt là các tiêu chuẩn địa phương phù hợp với bối cảnh Việt Nam; (ii) thiếu các ưu đãi tài chính cụ thể như miễn thuế cho trái phiếu xanh; (iii) năng lực và kiến thức về phát hành trái phiếu xanh tại nhiều tổ chức còn hạn chế; (iv) thiếu sự tham gia tích cực của các nhà đầu tư trong nước.
Chúng tôi tin rằng để giải quyết những thách thức này, các tổ chức phát hành, nhà đầu tư và cơ quan quản lý nhà nước cần ưu tiên triển khai năm nhóm giải pháp trong thời gian tới.
Thứ nhất, tăng cường sự hợp tác chặt chẽ giữa đơn vị phát hành và nhà đầu tư. Đây được xác định là giải pháp có tác động mạnh mẽ và dễ triển khai nhất. Đơn vị phát hành cần sớm tham vấn nhà đầu tư để hiểu rõ kỳ vọng và thiết kế sản phẩm phù hợp, đồng thời xây dựng mạng lưới các bên liên quan để hiểu rõ hơn về trái phiếu xanh, từ đơn vị phát hành, nhà đầu tư đến các tổ chức trung gian.
Thứ hai, các cơ quan quản lý nên cân nhắc việc tìm hiểu việc phát triển một chương trình hỗ trợ trực tiếp cho việc phát hành, bao gồm hỗ trợ cho việc phát triển khuôn khổ trái phiếu xanh và chi phí xác nhận.
Thứ ba, thúc đẩy đào tạo và nâng cao năng lực cho các thành viên thị trường thông qua các hội thảo và đào tạo về trái phiếu xanh là một trong những giải pháp có tác động và khả thi nhất.
Thứ tư, xây dựng các tiêu chuẩn trái phiếu xanh phù hợp với bối cảnh Việt Nam nhưng vẫn đảm bảo phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế.
Thứ năm, thực hiện các chính sách khuyến khích tài chính như miễn thuế cho nhà đầu tư trái phiếu xanh…”.
“Hiện nay, tất cả các tổ chức tín dụng tại Việt Nam đều đang gặp phải vấn đề trong việc thu hút và giải ngân vốn xanh, đó là chưa có quy định pháp lý về tiêu chí xanh, danh mục xanh quốc gia.
Việc chậm ban hành tiêu chí xanh cho từng ngành, lĩnh vực và Danh mục xanh quốc gia khiến các ngân hàng thương mại không có cơ sở để phân loại dự án và đánh giá rủi ro khi giải ngân vốn vay.
Tại Nam A Bank, chúng tôi bắt đầu giải ngân tín dụng xanh vào năm 2018. Chúng tôi huy động nguồn vốn xanh này từ các tổ chức bảo hiểm khí hậu toàn cầu. Tuy nhiên, các tiêu chí phân loại và thẩm định dự án mà chúng tôi hiện phải tuân thủ đều do Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) quy định. Các tiêu chí mà họ đặt ra cực kỳ nghiêm ngặt, tạo ra gánh nặng tuân thủ rất lớn cho cả ngân hàng và người vay (doanh nghiệp).
Chỉ riêng về phía ngân hàng, nguồn lực chi cho việc đánh giá và sàng lọc các yếu tố môi trường và xã hội của dự án đã làm tăng đáng kể chi phí vốn.
Trước khi giải ngân một dự án xanh, bền vững, ngân hàng phải đánh giá tác động và rủi ro suy thoái môi trường của dự án; tác động của dự án đến di sản văn hóa; cơ cấu lao động của người dân địa phương, v.v. Quá trình đánh giá này kéo dài trong suốt thời gian tài trợ của dự án và phải được cập nhật thường xuyên.
Nếu có phân loại xanh quốc gia với các tiêu chí môi trường rõ ràng thì đóng góp của ngành ngân hàng sẽ cao hơn nhiều so với con số tín dụng xanh hiện tại.
Bên cạnh đó, các dự án đầu tư xanh đòi hỏi thời gian hoàn vốn dài, chi phí đầu tư cao, rủi ro thị trường lớn. Do đó, các tổ chức tín dụng gặp khó khăn trong việc cân đối nguồn vốn cho vay, trong khi thiếu cơ chế, chính sách hỗ trợ các tổ chức tín dụng tiếp cận nguồn vốn dài hạn, ưu đãi, đặc biệt là huy động nguồn lực quốc tế để cung cấp tín dụng dài hạn, lãi suất ưu đãi cho các ngành, lĩnh vực xanh.
VnEconomy 2 tháng 9 năm 2024 09:40
Nội dung bài viết được đăng trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 36-2024, phát hành ngày 02 tháng 9 năm 2024. Kính gửi độc giả, vui lòng đọc tại Cái này:
https://postenp.phaha.vn/chi-tiet-toa-soan/tap-chi- Kinh-te-viet-nam
Link nguồn: https://vneconomy.vn/khoi-thong-nguon-luc-tai-chinh-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-dat-nuoc.htm