Chứng khoán MBS vừa đưa ra dự báo lợi nhuận sau thuế của các ngân hàng theo dõi với mức dự báo tăng 23,6% cho cả năm 2024 dựa trên tăng trưởng tín dụng cao hơn của nhóm ngân hàng thương mại Nhà nước; NIM tăng nhẹ hoặc đi ngang; Thu nhập ngoài lãi phục hồi nhờ phục hồi hoạt động thu phí. Kinh doanh vàng & ngoại hối cũng sẽ được dự báo có thu nhập tốt trong 6T2024 nhờ những biến động gần đây.
Theo đó, ACB dự báo lợi nhuận sau thuế năm 2024 sẽ tăng 19,5% so với cùng kỳ, nhờ Tín dụng dự kiến tăng 16% và NIM cải thiện nhẹ so với cùng kỳ. Q1/24 dự báo tăng 8,2% so với cùng kỳ dựa trên mức cao của Q1/2023.
BID: Lợi nhuận sau thuế quý 1/24 dự báo tăng mạnh 17% so với cùng kỳ, chủ yếu nhờ chi phí dự phòng rủi ro tín dụng giảm.
CTG: Tăng trưởng tín dụng quý 1/2024 đạt 5%. NIM sẽ đi ngang so với Q4/2023 đạt 2,9%. Thu nhập ngoài lãi tăng 12% nhờ hoạt động kinh doanh ngoại hối và thu phí.
HDB: Lợi nhuận sau thuế năm 2024 dự báo tăng 31,5% so với cùng kỳ nhờ tín dụng tiếp tục tăng trưởng tốt và NIM tiếp tục được cải thiện. Q1/24 dự báo tăng 48% so với cùng kỳ, dựa trên cơ sở thấp của Q1/23; Tín dụng quý 1/24 của HDB dự kiến tăng trưởng dương (2 tháng: 2,7% so với đầu năm) đi ngược xu hướng ngành.
MBB: Tăng trưởng tín dụng quý 1/24 dự báo tăng khoảng 5% so với cuối năm 2023. NIM sẽ đi ngang so với quý 4/2023 đạt 4,3%. Thu nhập ngoài lãi dự kiến tăng khoảng 12% so với cùng kỳ. Chi phí phân bổ dự báo tăng 10% so với Q1/2023.
OCB: Lợi nhuận sau thuế năm 2024 dự báo đạt 5.403 tỷ đồng, tăng 29,3% so với cùng kỳ Tăng trưởng tín dụng dự kiến đạt 14,9% nhờ được dẫn dắt bởi phân khúc cho vay chính là khách hàng cá nhân và SME khi nhu cầu tín dụng đối với 2 phân khúc này sẽ khả quan hơn. Ngoài ra, hoạt động cho vay liên quan đến bất động sản cũng sẽ tốt hơn.
NIM dự kiến sẽ đi ngang so với năm 2023 do NIM Q4/2023 không cải thiện so với quý trước và so với cùng kỳ. NIM được duy trì chủ yếu do COF giảm. Thu nhập hoạt động dự báo đạt 12.100 tỷ đồng, tăng 27%, trong đó thu nhập lãi thuần và thu nhập ngoài lãi tăng lần lượt 21,6% và 44%. Chi phí dự phòng dự báo tăng 30,7% so với cùng kỳ lên tới 1.472 tỷ đồng do tỷ lệ trích lập dự phòng được duy trì so với năm 2023 khi chất lượng tài sản có dấu hiệu suy giảm mạnh. NPL và nợ nhóm 2 dự báo sẽ đạt 2,5% và 3,0% vào cuối năm 2024. LLR cũng tăng nhẹ lên 59,7% (2023: 50,3%).
STB: Tăng trưởng tín dụng quý 1/24 đạt 4% so với cuối năm 2023. NIM đi ngang so với quý 4/2023 ở mức 3,6%. Chi phí dự kiến sẽ tăng 15% trong quý 1 năm 24.
TCB: Tăng trưởng tín dụng quý 1/24 đạt khoảng 8% so với cuối năm 2023. NIM quý 1/24 tăng 20 điểm cơ bản. Chi phí dự phòng tăng 32% so với cùng kỳ.
TPB: Năm 2023 sẽ giảm mạnh do thu nhập ngoài lãi giảm mạnh 10% so với cùng kỳ do thu nhập từ phí giảm, chi phí hoạt động tiếp tục tăng 13% so với cùng kỳ; và chi phí dự phòng rủi ro tín dụng tăng mạnh 114% so với cùng kỳ. Lợi nhuận sau thuế năm 2024 sẽ tăng mạnh, dựa trên nền tảng thấp của năm 2023 (năm 2023 giảm mạnh 29% so với cùng kỳ) khi tăng trưởng tín dụng tăng 16% vào năm 2024; Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng giảm 19% so với cùng kỳ. Đặc biệt, lợi nhuận sau thuế quý 1/24 giảm 11% do mức cơ sở cao cùng kỳ và tín dụng nửa cuối năm tăng mạnh hơn 6 tháng đầu năm 2024.
VCB: Q1/24 dự báo sẽ đi ngang do Q1/23 có cơ sở cao và tín dụng VCB trong Q1/24 dự kiến vẫn suy yếu.
VIB: Tăng trưởng tín dụng quý 1/24 đạt 5% do nhu cầu tín dụng bán lẻ yếu. NIM sẽ giảm 10 điểm cơ bản trong quý 1 năm 24. Chi phí tăng gấp đôi.
VPB: Dự kiến tăng trưởng tín dụng quý 1/24 đạt 10% so với cuối năm 2023. NIM tăng nhẹ lên 6,2%. Chi phí được dự báo sẽ tăng 9,5% trong quý 1 năm 24.
Theo MBS, mặc dù tăng trưởng tín dụng toàn ngành trong 3 tháng đầu năm 2024 còn khá chậm nhưng tính đến ngày 25/3/2024, tăng trưởng tín dụng tăng 0,26% so với cuối năm 2023 nhưng đã có những dấu hiệu tích cực. đến từ hoạt động xuất khẩu và dòng vốn FDI cho thấy tín dụng có thể được đẩy mạnh trong thời gian còn lại của năm 2024. Do đó, dự báo tăng trưởng tín dụng cả năm 2024 có thể đạt 14-15%, tương đương kế hoạch NHNN đề ra.
Những diễn biến cực kỳ tích cực của toàn ngành ngân hàng trong những tháng đầu năm đã khiến định giá toàn ngành tăng đáng kể so với lịch sử. Mức P/B ngành hiện tại là 1,66, cao hơn 6,7% so với trung bình 1 năm nhưng vẫn thấp hơn 8,7% so với trung bình 3 năm.
MBS tin rằng những ngân hàng có đặc điểm sau sẽ có kết quả kinh doanh tốt hơn toàn ngành. Thứ nhất, NIM có thể chịu được sự xói mòn do cắt giảm lãi suất cho vay để cạnh tranh tăng trưởng tín dụng. Những ngân hàng được kỳ vọng có NIM bền vững phải là những ngân hàng có chi phí vốn thấp và có lợi thế về CASA (như VCB, TCB, MBB…).
Thứ hai, các ngân hàng có mức tăng trưởng tín dụng tốt và ổn định nhờ có chính tệp khách hàng (như HDB, TCB,…).
Cuối cùng, những ngân hàng với chất lượng tài sản được cải thiện mạnh mẽ và mức trích lập dự phòng tăng mạnh trong năm 2023 sẽ giảm áp lực trích lập dự phòng trong năm 2024, qua đó giúp lợi nhuận sau thuế tăng đáng kể so với toàn nhóm. ngành (VIB, TCB CTG…).
Link nguồn: https://vneconomy.vn/loi-nhuan-ngan-hang-duoc-du-bao-tang-manh-trong-quy-1-co-nha-bang-lai-tang-bang-lan.htm