Lạm phát ở các nền kinh tế lớn giảm xuống mức thấp hiện tại từ mức đỉnh khoảng 9-10% vào năm 2022. Việc giảm leo thang lạm phát này là do giải tỏa các điểm nghẽn trong chuỗi cung ứng và giá cả hàng hóa. các nguyên tắc cơ bản, đặc biệt là giá năng lượng, đã trở lại trạng thái bình thường.
Trong khi đó, giai đoạn cuối của cuộc chiến chống lạm phát cho thấy đây sẽ là giai đoạn khó khăn hơn. Lạm phát lõi – thước đo không bao gồm giá của hai nhóm hàng hóa có nhiều biến động mạnh là năng lượng và thực phẩm – đã giảm xuống 3% tại các nền kinh tế phát triển kể từ giữa năm ngoái. Tuy nhiên, theo ước tính của Ngân hàng JPMorgan Chase, cho đến nay lạm phát cơ bản ở các nền kinh tế này đã tăng trở lại mức 3,5%.
KỲ VỌNG GIẢM LÃI SUẤT ĐẢO NGƯỢC
Điều này buộc các nhà đầu tư phải suy nghĩ lại những lời đặt cược trước đây rằng lạm phát sẽ giảm dần về mục tiêu của các ngân hàng trung ương, thường là 2%. Theo Wall Street Journal, thậm chí còn có lo ngại lạm phát có thể gia tăng, tương tự như làn sóng thứ hai trong thời kỳ lạm phát cao những năm 1970.
Một báo cáo của JPMorgan Chase cho biết dự báo của các nhà kinh tế và ngân hàng trung ương về xu hướng giảm lạm phát kéo dài phụ thuộc phần lớn vào các yếu tố chưa được xác nhận là giảm, bao gồm cả giá cả. việc làm toàn cầu, kỳ vọng lạm phát ngắn hạn hoặc các tín hiệu gần đây từ thị trường hàng hóa cơ bản. Báo cáo nhấn mạnh lạm phát giá hàng hóa đã giảm trong năm ngoái nhưng hiện đang tăng trở lại, trong khi lạm phát giá dịch vụ vẫn ở mức cao.
Các ngân hàng trung ương cho biết họ dự kiến giai đoạn giảm phát cuối cùng sẽ khó khăn và ra tín hiệu sẵn sàng chờ đợi cho đến khi đạt được các điều kiện thực sự phù hợp trước khi bắt đầu cắt giảm lãi suất. Tuy nhiên, việc giảm lãi suất ít lần hơn dự kiến, thậm chí không giảm lãi suất trong năm nay sẽ gây tác động lớn tới kinh tế và thị trường tài chính toàn cầu – nơi giá cổ phiếu tại nhiều quốc gia đã tăng mạnh trong thời gian gần đây sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) duy trì chính sách giảm lãi suất. dự báo sẽ cắt giảm lãi suất ba lần vào năm 2024.
Số liệu lạm phát mới nhất từ Bộ Lao động Mỹ cho thấy chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng cao hơn dự báo trong tháng 3. Đặc biệt, tổng CPI tăng 0,4% so với tháng trước và tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước, cả hai đều tăng lớn hơn dự báo, lần lượt là 0,3% và 3%. 4% trong một cuộc khảo sát của hãng tin Dow Jones. CPI cơ bản – thước đo lạm phát không bao gồm giá lương thực và năng lượng – tăng 0,4% so với tháng trước và tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước, cũng cao hơn mức dự báo tương ứng tăng lần lượt là 0,3% và 3,7%.
“Các con số lạm phát ngắn hạn cho thấy tiến trình giảm phát đã chậm lại và thậm chí có thể đã dừng lại. Tôi cho rằng việc giảm số lần cắt giảm lãi suất, hoặc trì hoãn cắt giảm lãi suất là phù hợp với tình hình hiện tại”, Thống đốc Fed Christopher Waller cho biết vào cuối tháng 3/2024.
Sau khi báo cáo CPI tháng 3/2024 của Mỹ được công bố vào tuần trước, thị trường gần như ngừng đặt cược vào khả năng Fed sẽ có đợt cắt giảm lãi suất đầu tiên vào tháng 6, mà thay vào đó đã chuyển kỳ vọng này sẽ đến tháng 9 năm nay. Đầu năm nay, các nhà đầu tư và chuyên gia kinh tế đã tự tin rằng Fed sẽ bắt đầu chu kỳ nới lỏng vào tháng 3 năm 2024.
Trong lần xuất hiện cuối tháng 3, Chủ tịch Fed Jerome Powell tái khẳng định lập trường thận trọng về việc giảm lãi suất, nhưng có phần lạc quan hơn những gì ông Waller nói. Ông Powell cho rằng, lạm phát đang giảm về ngưỡng 2% tuy trên con đường đôi khi gập ghềnh nhưng sự ổn định của tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện cho phép các nhà hoạch định chính sách chờ đợi. “Tiến trình giảm lạm phát sẽ chậm lại trong 2-3 tháng tới? Chúng ta chỉ cần chờ xem dữ liệu kinh tế như thế nào,” ông Powell nói trong một cuộc phỏng vấn tại chi nhánh Fed ở San Francisco.
Ông Joachim Nagel, Chủ tịch Ngân hàng Trung ương Đức (Bundesbank), thành viên Ủy ban ấn định lãi suất của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB), cho biết vào cuối tháng 2/2024 lạm phát cơ bản tại khu vực Eurozone vẫn ở mức cao hơn 2 điểm phần trăm so với mức bình quân giai đoạn 1999-2000. “Nếu chúng ta giảm lãi suất quá sớm hoặc quá mạnh, sẽ có nguy cơ không đạt được mục tiêu đề ra, thậm chí có thể phải tăng lãi suất trở lại”, ông Nagel nhấn mạnh. Ông dẫn báo cáo gần đây của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cho biết, từ những năm 1970 đến nay, cứ 10 cú sốc lạm phát thì có 4 cú sốc vẫn chưa được giải quyết triệt để, thậm chí sau 5 năm. năm.
Lạm phát cơ bản ở Ý tăng lên 2,4% trong tháng 3, từ mức 2,3% trong tháng 2. Lạm phát toàn phần tại Pháp giảm xuống 2,3% trong tháng 3, tuy nhiên lạm phát giá dịch vụ vẫn dai dẳng với mức tăng 3% so với cùng kỳ năm ngoái.
NGUYÊN NHÂN LẠM PHÁT VĨNH VIỄN
Mặc dù lãi suất tăng mạnh trong 2 năm qua nhưng tăng trưởng kinh tế vẫn ổn định, đặc biệt là ở Mỹ. Vào cuối tháng 3 năm 2024, chỉ số tăng trưởng kinh tế Mỹ theo thời gian thực của chi nhánh Fed Atlanta cho thấy tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế lớn nhất thế giới trong quý 1 năm 2024 tăng lên 2,3%. từ mức 2,1% trước đó. Tiêu dùng – lĩnh vực chủ chốt của nền kinh tế Mỹ – sau khi điều chỉnh theo lạm phát đã tăng 5% so với cùng kỳ trong tháng 2, theo dữ liệu từ Bộ Thương mại Mỹ.
Chuyên gia kinh tế Paul Ashworth của công ty nghiên cứu kinh tế Capital Economics cho biết: “Sức mạnh tiêu dùng bất ngờ có nghĩa là sẽ không có bất kỳ sự vội vàng nào trong việc cắt giảm lãi suất”.
Đối với châu Âu, tăng trưởng kinh tế đã chững lại kể từ cuối năm 2022, nhưng các cuộc khảo sát kinh doanh gần đây cho thấy triển vọng đang tươi sáng hơn. Đồng thời, thị trường việc làm sôi động ở cả hai bờ Đại Tây Dương và tốc độ tăng trưởng tiền lương vẫn ở mức cao – một dấu hiệu của việc thắt chặt nguồn cung lao động. Tiền lương là yếu tố đầu vào quan trọng dẫn đến lạm phát giá dịch vụ tại khu vực Eurozone – chỉ số này vẫn duy trì ở mức 4% hàng năm kể từ tháng 11 năm ngoái và vẫn chưa hạ nhiệt.
Nội dung bài viết được đăng trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 15-2024 xuất bản ngày 8/4/2024. Mời độc giả thân mến đọc tại đây:
https://postenp.phaha.vn/chi-tiet-toa-soan/tap-chi- Kinh-te-viet-nam
Link nguồn: https://vneconomy.vn/chang-cuoi-gian-nan-cua-cuoc-chien-chong-lam-phat.htm