Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel hiện là tập đoàn viễn thông lớn nhất Việt Nam, bao gồm hơn 20 công ty con hoạt động trong nhiều lĩnh vực như viễn thông, đầu tư, bất động sản, thương mại quốc tế và dịch vụ kỹ thuật.
Năm 2006, Viettel quyết định mở rộng hoạt động kinh doanh ra nước ngoài với mục tiêu tìm kiếm thị trường tiềm năng. Công ty Cổ phần Đầu tư Quốc tế Viettel (nay là Tổng công ty Đầu tư Quốc tế Viettel – Viettel Global, mã chứng khoán VGI) được thành lập để thực hiện mục tiêu trên.
Theo thông tin đăng tải trên website chính thức của công ty, Viettel Global đã đưa vào hoạt động 9 công ty viễn thông tại 9 quốc gia thuộc Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ với tổng dân số hơn 175 triệu người và 13 triệu khách hàng.
Viettel Global vừa công bố báo cáo tài chính hợp nhất đã kiểm toán 6 tháng đầu năm 2024. Cụ thể, doanh thu bán hàng và dịch vụ của Viettel Global đạt 16.594 tỷ đồng, tăng 25% so với 6 tháng đầu năm 2023, cao gấp hơn 5 lần so với tốc độ tăng trưởng viễn thông thế giới (4,3% theo Gartner). Như vậy, Trung bình mỗi ngày, doanh nghiệp này có doanh thu hơn 91 tỷ đồng.
Trong quý II/2024, Viettel Global cũng đạt doanh thu kỷ lục gần 8.679 tỷ đồng, tăng 27,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây cũng đánh dấu 10 quý liên tiếp doanh thu tăng trưởng so với cùng kỳ của VGI. Hiện tại, Viettel Global đang nắm giữ thị phần lớn nhất tại 7 thị trường trên toàn thế giới.
Cùng với việc tăng doanh thu, Lợi nhuận trước thuế của công ty sau nửa năm cũng đạt 4.740 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế đạt 2.855 tỷ đồng.
Giải thích về biến động lợi nhuận trong 6 tháng đầu năm, VGI cho biết, lợi nhuận sau thuế hợp nhất của VGI trong 6 tháng đầu năm 2024 là 2.855 tỷ đồng, tăng 3.481 tỷ đồng so với cùng kỳ, tương ứng với sự chuyển dịch từ lỗ sang lãi. Nguyên nhân chính là do hầu hết các công ty trên thị trường (bao gồm cả công ty con và công ty liên kết) đều có tăng trưởng kinh doanh tốt.
Doanh thu bán hàng và dịch vụ của các doanh nghiệp thị trường tăng trưởng mạnh, trong đó, Lumitel tại Burundi tăng 31%, Movitel tại Mozambique tăng 23%, Natcom tại Haiti tăng 18%, Telemor tại Đông Timor tăng 11%, Metfone tại Campuchia tăng 8%, Halotel tại Tanzania tăng 5%.
Trong đó, các công ty ví điện tử cũng tăng trưởng ấn tượng như M_mola (Mozambique) tăng 169%, Mosan (Đông Timor) tăng 34%, Halopesa (Tanzania) tăng 34%, Lumicash (Burundi) tăng 21%, Emoney (Campuchia) tăng 16%. Lợi nhuận từ các công ty liên kết tăng trưởng 27%.
Bên cạnh đó, chi phí dự phòng giảm mạnh (giảm 875 tỷ đồng), dòng tiền từ thị trường tốt giúp VGI tái cơ cấu tiền gửi và cho vay, tạo ra lợi nhuận tài chính, góp phần tăng lợi nhuận.
Tính đến ngày 30 tháng 6 năm 2024, tiền và các khoản tương đương tiền của VGI là hơn 11.151 tỷ đồng. Trong đó, tiền mặt là hơn 7,9 tỷ đồng. Tiền gửi không kỳ hạn là hơn 10.694 tỷ đồng, bao gồm tiền mặt tại KCB Bank Kenya và CRDB Bank dùng để đảm bảo cho các khoản vay tại các ngân hàng này cũng như tiền gửi của khách hàng tại các công ty ví điện tử (công ty con của tập đoàn). Tiền tương đương tiền là hơn 358 tỷ đồng, bao gồm tiền gửi ngân hàng có kỳ hạn gốc không quá 3 tháng với lãi suất từ 3% – 8%/năm (tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2023, từ 0,7% – 9%/năm).
Công ty cũng ghi nhận hàng tồn kho gần 2.768 tỷ đồng. Trong kỳ, các công ty con của công ty đã trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho gần 33 tỷ đồng (hơn 6,7 tỷ đồng trong 6 tháng đầu năm 2023) do giá trị thuần thực tế của các hàng tồn kho này thấp hơn giá trị sổ sách. Công ty cũng đã thế chấp một phần hàng tồn kho lưu thông với giá trị tính đến ngày 30 tháng 6 năm 2024 khoảng 371 tỷ đồng để đảm bảo cho các khoản vay từ ngân hàng.
Link nguồn: https://cafef.vn/doanh-thu-ky-luc-thi-phan-dan-dau-7-thi-truong-tap-doan-vien-thong-lon-nhat-viet-nam-loi-lai-ra-sao-188240830114347116.chn