Năm 2024, dự báo tình hình kinh tế tiếp tục diễn biến phức tạp. Việc thực hiện hiệu quả các chính sách kích cầu sẽ tạo ra hiệu ứng tâm lý tích cực, tạo niềm tin cho doanh nghiệp, ngân hàng, nhà đầu tư trong và ngoài nước. cộng đồng quốc tế về trách nhiệm của Nhà nước trong hỗ trợ doanh nghiệp gặp khó khăn cũng như niềm tin vào triển vọng thị trường và môi trường đầu tư trong nước.
NHU CẦU TRONG NƯỚC VẪN YẾU
Năm 2023, nhu cầu trong nước yếu và khả năng năm 2024 vẫn chưa đủ lớn để tác động tiêu cực tới lạm phát. Nhu cầu trong nước yếu được nhận định từ nhiều góc độ khác nhau.
Đầu tiên, Tốc độ tăng trưởng tích lũy tài sản (4,09%) và tiêu dùng cuối cùng (3,52%), hai thành phần lớn nhất trong tổng nhu cầu trong nước, đều thấp hơn tốc độ tăng trưởng GDP (5,05%). Tỷ trọng đóng góp vào tốc độ tăng trưởng GDP chung của cả nước của tiêu dùng cuối cùng là 41,04%, tài sản tích lũy là 26,64%, gộp cả hai phần đạt 67,68%, phải dựa vào đóng góp của thặng dư thương mại là 32,32%.
Thứ hai, Tích lũy tài sản, tiền đề đầu tư và tỷ lệ vốn đầu tư phát triển xã hội/GDP trong những năm qua được thể hiện trên Hình 1.
Theo đó, tỷ lệ tổng vốn đầu tư phát triển xã hội/GDP giảm dần qua các năm, đặc biệt năm 2023 (năm bản lề của Kế hoạch 5 năm) thấp hơn các năm trước, thậm chí thấp hơn năm 2020 khi đại dịch Covid-19 xảy ra và vào năm 2021 khi đại dịch bùng phát.
Cùng với việc tỷ lệ vốn đầu tư phát triển/GDP giảm, có một lượng vốn không nhỏ “chôn” vào tiền ảo, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản và cuối năm cũng bị “chôn” vào vàng. chưa Tập trung vào sản xuất vật chất trực tiếp.
Thứ ba, Tỷ lệ tiêu dùng cuối cùng, bao gồm cả tỷ lệ tiêu dùng của hộ gia đình so với GDP trong những năm qua như sau (Hình 2).
Hai chỉ số trên có xu hướng giảm. Trong 2 năm, đại dịch là khó tránh khỏi, nhưng sự sụt giảm trong năm 2022 và 2023 là điều đáng lo ngại, chứng tỏ mức tiêu thụ cuối cùng yếu và giảm. Điều này chứng tỏ tâm lý “tiết kiệm ngày mưa” và “thắt chi tiêu” trong những năm đại dịch vẫn còn tác động lâu dài.
Thứ Tư, Thặng dư thương mại hàng hóa và thâm hụt thương mại dịch vụ trong những năm qua được thể hiện trên Hình 3.
Năm 2023 là năm thứ 8 liên tiếp xuất siêu và có thặng dư thương mại lớn nhất từ trước đến nay (vượt kỷ lục cũ đạt được năm 2020). Thâm hụt thương mại dịch vụ năm 2023 tuy vẫn lớn nhưng đã giảm so với 3 năm trước đó. Bao gồm tất cả hàng hóa, dịch vụ đã xuất siêu, cán cân thương mại xuất nhập khẩu được tính lại theo giá FOB và cán cân dịch vụ xuất nhập khẩu được tính lại khi loại trừ dịch vụ vận tải. Cụ thể, thặng dư thương mại hàng hóa, dịch vụ từ năm 2018 đến năm 2021 được tính toán lại và thể hiện trên Hình 4.
Do tổng cầu trong nước yếu nên tốc độ tăng trưởng GDP thấp; Nếu không xuất siêu, tăng trưởng GDP thậm chí còn thấp hơn (chỉ khoảng dưới 3,5%).
Năm 2024, mục tiêu tăng trưởng GDP cao hơn tốc độ tăng trưởng đạt được năm 2023 (6-6,5% so với 5,05%). Để đạt được mục tiêu tăng trưởng cao hơn này, tổng cầu trong nước năm 2024 phải tăng cao hơn, hoặc phải duy trì thặng dư thương mại hàng hóa, dịch vụ, nếu có giảm cũng chỉ giảm nhẹ.
Tổng cầu trong nước nhiều khả năng sẽ tăng cao hơn, do cả 3 khu vực đều có thể có chuyển biến tích cực. Tích lũy tài sản sẽ tốt hơn, cộng với sự dịch chuyển của dòng tiền “chôn vùi” ở các kênh đầu tư khác sẽ quay trở lại kênh đầu tư trực tiếp cho sản xuất, kinh doanh hoặc chuyển sang tiêu dùng. Vì vậy, tỷ lệ vốn đầu tư phát triển xã hội/GDP năm 2024 sẽ tăng, góp phần làm tốc độ tăng tích lũy tài sản tăng cao hơn. Khi tốc độ tích lũy tài sản cao thì tốc độ tăng trưởng GDP cao nhưng hiệu quả đầu tư khó tăng cao sẽ gây áp lực lên lạm phát.
Tiêu dùng cuối cùng, sau nhiều năm suy yếu, có thể dần hồi phục vào năm 2024 nhờ cải cách tiền lương cho công chức, viên chức nhà nước và lương hưu tăng với tốc độ cao hơn tốc độ tăng giá tiêu dùng theo mục tiêu kế hoạch. Tuy nhiên, việc làm và thu nhập của người lao động trong khu vực sản xuất kinh doanh (cả doanh nghiệp và cá nhân) phải được cải thiện; Nếu tinh thần kinh doanh được khuyến khích nhiều hơn, chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ sẽ tiếp tục được nới lỏng…
Xuất khẩu sẽ tăng trở lại mà không giảm như năm 2023, mục tiêu tăng 6%, tức đạt 376,8 tỷ USD. Nhập khẩu có thể tăng cao hơn (mục tiêu đạt 361,8 tỷ USD). Tuy nhiên, năm 2024 có thể vẫn xuất siêu và là năm thứ 9 liên tiếp xuất siêu nhưng mức xuất siêu có thể không cao kỷ lục (28 tỷ USD, kế hoạch 15 tỷ USD) như năm 2023, do đó tác động về tăng trưởng kinh tế sẽ không cao như năm 2023.
YÊU CẦU TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Trong tình hình Việt Nam, mặc dù GDP bình quân đầu người tính bằng USD liên tục tăng trong thời gian gần đây nhưng đến năm 2021 vẫn thấp hơn rất nhiều so với mức trung bình thế giới và thấp so với nhiều nước (Biểu đồ 5).
Năm 2021, GDP bình quân đầu người của Việt Nam thấp thứ 6 Đông Nam Á, xếp thứ 26/42 châu Á và thứ 82/120 quốc gia, vùng lãnh thổ có số liệu so sánh. Ước tính đến năm 2023, thứ hạng có thể còn cao hơn khi Việt Nam ước đạt 4.284 USD/người.
Để GDP bình quân đầu người của Việt Nam tránh được nguy cơ “tiểu xa hơn”, “rơi vào bẫy thu nhập trung bình”, “già trước khi giàu” thì cần phải tăng trưởng cao hơn.
Đó là chặng đường dài nhưng trước mắt là yêu cầu tăng trưởng theo mục tiêu 2024 và mục tiêu đến năm 2025 trong kế hoạch 5 năm (2021-2025).
Năm 2024, mục tiêu tăng trưởng kinh tế là 6-6,5%. Mục tiêu này mặc dù thể hiện sự thận trọng của các nhà hoạch định kinh tế vĩ mô trước những biến động khó lường của kinh tế thế giới và những khó khăn, hạn chế trong nước nhưng việc thực hiện tốc độ tăng trưởng ở mức cao. (6,5%) cũng không hề dễ dàng.
Kể cả đạt được mức độ thực hiện cao, để thực hiện các nhiệm vụ còn lại theo mục tiêu tăng trưởng 6,5-7%/năm của kế hoạch 5 năm cũng không dễ, bởi năm 2024 sẽ đạt mức cao (6,5%/năm). . %), so với năm 2020 chỉ tăng 23,94% nên năm 2025 so với năm 2024 phải tăng 11,05-13,17%. Đó là tốc độ đổi mới chưa từng đạt được trước đây. Khi không đạt được tốc độ tăng trưởng theo kế hoạch 5 năm, có thể một lần nữa sẽ trượt mục tiêu có nền công nghiệp hiện đại, thoát ra khỏi nhóm thu nhập trung bình (thấp).
NỘI DUNG VÀ GIẢI PHÁP KÍCH THÍCH NHU CẦU
Để kích cầu cần tập trung vào 3 nội dung và giải pháp chính. Một là, tăng cường tích lũy, tăng đầu tư trực tiếp vào sản xuất kinh doanh và tăng hiệu quả đầu tư. Việc tăng tích lũy chủ yếu đòi hỏi phải tăng tỷ suất lợi nhuận trước thuế. Đối với các doanh nghiệp, tỷ suất lợi nhuận trước thuế trong vài năm qua như sau (Hình 6). Theo đó, tỷ suất lợi nhuận chung của khu vực doanh nghiệp thấp hơn lãi suất vay ngân hàng, thậm chí có năm còn thấp hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng…
Nội dung bài viết được đăng trên ấn phẩm đặc biệt Kinh tế 2023-2024: Việt Nam & Thế giới phát hành ngày 6/3/2024. Mời độc giả thân mến đọc tại đây:
https://postenp.phaha.vn/chi-tiet-toa-soan/tap-chi- Kinh-te-viet-nam
Link nguồn: https://vneconomy.vn/nam-2024-van-can-phai-kich-cau.htm